Kỳ Viên Ðại Hội
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Ðức Phật ở
nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Ðộc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị
đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như
là:
- Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Ðại
Mục-Kiền-Liên, Ðại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Ða,
Châu-Lợi-Bàn-Ðà-Già, Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Ðề, Tân
Ðầu-Lư-Phả-La-Ðọa, Ca-Lưu-Ðà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Ðà,
những vị đại đệ tử như thế.
- Và hàng Ðại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi:
Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Ða Bồ Tát, Càn-Ðà-Ha-Ðề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát...
cùng với các vị Ðại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông
Thích-Ðề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.
Y Báo Chánh Báo
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão
Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới
tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Ðà hiện nay đương nói
pháp.
Y Báo Trang Nghiêm
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực
lạc?. Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều
vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng
bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc
giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao
bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát
vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn
bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly,
pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc
xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ,
sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu
công đức trang nghiêm dường ấy. Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó,
thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn
đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng
những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn
liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu
công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những
giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạt, Khổng-tước, Anh-võ,
Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu
tiếng hòa nhã. Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ
đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong
thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những
giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?. Vì cõi của đức Phật đó không
có ba đường dữ. Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống
gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Ðà muốn làm cho tiếng
pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật
đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng
vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe
tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá-Lợi-Phất!
Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Chánh Báo Vô Lượng Thù
Thắng
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Ðức
Phật đó vì sao hiệu là A Di Ðà?..Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó, hào quang sáng chói
vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế
nên hiệu là A Di Ðà...Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô
lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Ðà.
Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật A Di Ðà thành Phật
nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô
biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết
được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó
thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc,
những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển. Trong đó có rất
nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được,
chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!
Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những
điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng
với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.
Nhơn Hạnh Vãng Sanh
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít
thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó. Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Ðà, rồi chấp trì danh hiệu của
đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày,
hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người
đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Ðà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước
người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi
nước Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà.
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy
nên nói những lời như thế. Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên
phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
Sáu Phương Phật Ðồng Khuyến
Tin
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen
công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Ðà, phương Ðông cũng có
đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Ðại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm
Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng
lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
"Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức
Nhật- Nguyệt-Ðăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Ðăng
Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại
nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói
lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả
Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức
Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Ðại Quang Phật,
Ðại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa số những đức Phật
như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên
đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh:
Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm
Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức
Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh
Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng
lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
"Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có
đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Ðạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật,
Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện
ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật
rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức
Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có
đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật,
Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật,
Bửu-Hoa Ðức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng hà sa
số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm
khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi
phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào,
vì sao tên là kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?..Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có
thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu
của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các
đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải
tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói. Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát
nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật
A Di Ðà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về,
hoặc sẽ sanh về. Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người
nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
Thuyến Kinh Bất Khó
Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen
công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen
công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: "Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật hay
làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món
trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược
trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài vì các
chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này".
Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong
đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và
vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! . Ðức Phật nói kinh
này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người,
A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui
ra. Thích Nghĩa A Di Ðà Kinh
1. Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu
Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật a Di Ðà
Phật.
2. Triều-Tấn (Tàu), Diệu Hưng chiếm một
phần đất xưng Vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Diệu Tần. Bậc thông hiểu tam
tạng kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng
Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh
chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.
3. Ông Cấp Cô Ðộc Trưởng Giả mua khu
vườn của ông Kỳ Ðà Thái Tử, con vua Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn
rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng
chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà
gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên vậy. Ðệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ
có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Ðại A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ
trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số
đó.
4. A-Dật-Ða là tên của đức Di-Lặc Bồ
Tát. - Càn-Ðà Ha-Ðề Bồ Tát là ngài Bất-Hưu-Tưức Bồ Tát - Thích-Ðề-Hoàn-Nhân là
tên của Ðế Thích, vua cõi trời Ðao Lợi.
5. - Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao
rừng v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước cưc lạc. - Chánh báo
là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú..v..v.. trong đây chánh
báo là đức Phật A Di Ðà cùng Bồ tát, Thanh Văn ..v..v..
6. Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà
có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ.. Trái lại, bên cõi
Cực lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc...Khổ Ở Cõi Ta
Bà Tam Khổ:
a. Khổ khổ: mang thân sắc người
nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại
còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát,
nóng rét..v..v.. b. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ
mành, tang thương xây chuyển, như sương đầu cỏ. c. Hành khổ: trong mỗi
niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
Bát
Khổ: - Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ
trăm bề. - Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng
mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc.. - Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức
nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được. - Tử khổ: ngộp
mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút.. - Cầu bất đắc khổ:
lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong.. - Ái
biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly... - Oán tắng tội
khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ.. - Ngũ ấm xí thạnh khổ:
thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không
khác..Vui Ở Cực Lạc
Tam
Lạc: 1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân
nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện... 2. Bất biến hoại lạc: thân mạng
trường tồn, cõi nước không thiêu diệt... 3. Bất động trí lạc: định huệ
dung thông, chánh tri bất động...
Bát
lạc: 1. Sanh Lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa
sanh.. 2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không
yếu... 3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau
yếu... 4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất
diệt... 5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thưc tự
nhiên... 6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không
rời.. 7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm
xứng ý.. 8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không
dời..Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên
nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cưc Lạc. 9. Bốn báu: vàng, bạc,
lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng ,bạc, lưu
ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây
thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có thứ cây thân
vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống,
cũng như cây bên này bằng chất gỗ.
10. Trong đây nói đất là chỉ
thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi cực lạc thuần bằng chất
vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi.
- Tám công đức của nước trong ao bên Cực
Lạc:trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm hòa huỡn, uống
vào hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.
11. Người nước Cực Lạc đều có
thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới. Ði kinh
hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành.
Phật, Pháp và Tăng...Ði kinh hành có hai điều lợi ích:
a) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm,
phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và b) điều hoà thân
thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
12. Tinh, tấn, niệm, định, huệ:
người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạonhư cây có rễ nên gọi
là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động
được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Ðề Phần cũng gọi là
Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an,
Ðịnh, và Xả. Bát Thánh Ðạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Ở trong cõi Ta bà
nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do
ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn,
không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di
Ðà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.
13. Ðoạn nầy là đức Phật tự định
danh nghĩa của ba đức A di Ðà, vì có hai điều vô lượng: a) Vô lượng quang,
b) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là A Di Ðà.
14. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm)
Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng
đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả
mọi người được sanh về cõi Cưc Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối
lại có vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một
đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở
cung trời Ðâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy). Các bậc Thượng
thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
15. Cõi Cực Lạc thù thắng trang
nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được
nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm
chung đức Phật A Di Ðà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát ..phóng quang
đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cưc Lạc. - Niệm Phật không còn móng tưởng gì
khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi
là nhứt tâm bất loạn.
16. Người tu Tịnh Ðộ phải có đủ
ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn
được sanh về cõi Cưc Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là
nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo,
cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
- Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng.
Sông Hằng là con sống lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ
Thiên Trúc, đổ vào Ấn Ðộ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất
mịn. Ðương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một
số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.
- Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự
thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy
trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn
như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?
- Một thái dương hệ là một tiểu thế
giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên
thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế
giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới
[1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Ðại thiên thế giới].
- Ðại thiên thế giới của ta ở đây tên là
Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà
chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.
Ngũ
Trựơc:
a) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho
thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là
thời đại đục nhơ.
b) Kiến trược: Những điêu mê
chấp, tà kiến, điên đảo...
c) Phiền não trược: Các tâm niệm
bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín... d) Chúng sanh trược: Năm
ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng. e) Mạng trược: Số thọ
rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên đây tánh cách
nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.23/7/2014.
|
No comments:
Post a Comment