1- Nguyện thứ mười tám của Phật A Đi
Đà:
Hầu hết người học Phật tu theo pháp môn
Tịnh độ, ai cũng biết đến đức Phật A Di Đà và bốn mươi tám lời nguyện vĩ đại hàm
chứa đức từ bi vô lượng của ngài. Trong đó có đại nguyện thứ mười tám gây ấn
tượng mạnh mẽ trong tâm hồn của mọi người phát tâm niệm Phật. Nội dung lời
nguyện như sau: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở
mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không
được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy
báng chánh Pháp.”.
Bổn nguyện cứu độ chúng sanh của Phật vô
cùng rộng lớn, gây niềm tin vững chắc cho người tu niệm Phật phát nguyện sanh về
cỏi Tây Phương. Xuất phát từ ý nghĩa đó, từ xưa cho tới nay, pháp niệm Phật vãng
sanh và khuynh hướng hộ niệm người sắp lâm chung được phổ cập rộng rãi trong
sinh hoạt của mọi người tu theo pháp môn Tịnh Độ. Tuy nhiên, hiểu như thế nào về
ý nghĩa mười niệm vãng sanh là điều quan trọng để có thái độ tu học thiết thực
trong đời sống này.
2- Kinh luận liên quan Pháp mười niệm niệm
Phật:
Liên quan Pháp mười niệm vãng sanh xuất xứ
từ trong hai kinh: Kinh Vô Vô Lượng Thọ và Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Điều chú ý là
Kinh Vô Lượng Thọ nói: Người dù tạo ác nhưng niệm mười danh hiệu Phật hay “Nhẫn đến mười niệm” nguyện vãng sanh thì
được toại nguyện, chỉ trừ năm tội nghịch và hủy báng chánh Pháp. Còn Kinh Quán
Vô Lượng Thọ nói rằng: Người làm thập
ác năm nghịch, làm đủ hết các điều
bất thiện niệm Phật hay “Xưng danh chẳng
dứt mười niệm”cũng
được vãng sanh. Như vậy, vậy thì về vấn đề tội báo nhân quả và hạng người nào
niệm Phật thì được vãng sanh?. Nay người viết xin trích câu hỏi và đáp từ Luận
giải như sau:
“Hỏi rằng: Kinh Vô Lượng Thọ có nói:
Người nguyện vãng sanh, đều được vãng sanh, chỉ trừ (các hạng làm) năm (tội)
nghịch (và) phỉ báng chính pháp. (Nay) Kinh Quán Vô Lượng Thọ (lại) nói, làm năm
nghịch, mười ác đủ hết các bất thiện, cũng được vãng sanh. Hai kinh này (nói
khác nhau như vậy), làm sao để hiểu?
Đáp rằng: Một kinh (thì) cho rằng đủ hai loại tội
nặng, một là năm nghịch, hai là phỉ báng chính pháp, do vì hai thứ tội này cho
nên không được vãng sanh. Một kinh (lại) chỉ nói làm mười ác, năm nghịch các
tội, (chứ) không nói phỉ báng chính pháp, do vì không phỉ báng chính pháp cho
nên được vãng sanh.”
Chúng ta thấy, nội dung lời nguyện thứ
mười tám, kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ đều nhắc đến mười niệm Phật
thành tựu thì được vãng sanh. Hai Kinh đồng một ý nghĩa rằng, người đã từng làm
mười điều bất thiện, năm nghịch tội đáng đọa vào địa ngục, nhưng nếu biết niệm
Phật thì được sanh về cỏi Phật, chỉ trừ tội phỉ báng chánh pháp. Vậy tội hủy
báng chánh pháp là như thế nào mà không được vãng sanh? Luận giải thích rằng: “Nếu
nói là không có Phật, không có pháp của Phật, không có Bồ Tát, không có pháp của
Bồ Tát, các cái thấy như vậy, hoặc tâm (mình) tự hiểu (như thế), hoặc nghe theo
kẻ khác, (một khi) tâm (nghĩ) như thế (mà) quyết định (rồi), thì đều gọi là phỉ
báng chính pháp” . Vấn đề ở đây không phải sức từ bi
của Phật giới hạn mà nguyên lý nhân quả và cơ duyên thành tựu pháp vãng sanh
không thực hiện được.
3- Mười Niệm Phật thành tựu vãng
sanh:
Kinh luận trong giáo lý Tịnh Độ hầu hết là
phổ biến nội dung Niệm Phật, nhưng pháp mười niệm vãng sanh và một niệm vãng
sanh được Phật thuyết rõ trong Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ. Còn kinh
A Di Đà Đức Phật dạy thời gian Niệm Phật là một đến bảy ngày và nhất tâm bất
loạn lúc lâm chung sẽ được Phật A Di Đà và thánh chúng tiếp độ về cõi Tây
Phương. “Nhất tâm bất loạn”, nhất
tâm dứt trừ vọng tưởng, bất loạn là tâm tư không còn điên đảo. Vấn đề là chất
lượng một niệm và mười niệm được vãng sanh phải đồng nghĩa với “Nhất tâm bất loạn” Phật thuyết trong
kinh A Di Đà.
Niệm là gì, thời gian một niệm bao lâu?
Luận chú giải thích rằng: “Cứ 101 lần sinh diệt gọi là một sát na, 60
sát na gọi là một niệm. Nói niệm nơi (mười niệm) đây, không dựa theo thời tiết
vậy. Chỉ (có ý) nói là ức niệm (tức nhớ tưởng) Phật A Di Đà, hoặc tổng tướng
(của ngài), hoặc biệt tướng (của ngài). Cứ duyên theo đó mà quán, tâm không
tưởng gì khác. Mười niệm tương tục (như thế thì) gọi là mười niệm. (Nếu) chỉ
xưng danh hiệu thôi (thì ý nghĩa ấy) cũng giống như vậy” Như vậy thì nếu quán tướng Phật thì trong
tâm chỉ có Phật mà thôi, không xen tạp tưởng gì khác mới gọi một niệm thành tựu.
Còn niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật thì phải niệm niệm tương tục không gián
đoạn. Khi niệm như thế rồi, nếu nhất tâm bất loạn, tức đắc định rồi thì không
còn ý niệm một hay là mười niệm. Mười Niệm hay Một Niệm nhất tâm bất loạn trước
lúc lâm chung được Vãng Sanh là không phải dễ thực hiện. Vì ngay đời này không
khéo tu tập thiện Pháp, lúc lâm chung thân thể đau đớn rã rời, tâm thần hôn mê
làm sao mà nghe diệu Pháp để y pháp niệm Phật vãng sanh. Do vậy, Kinh A Di Đà
nhấn mạnh rằng: “Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít
thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.” là nghĩa
ấy.
Vãng sanh là mục đích then chốt của việc tu Tịnh Độ, niệm Phật là chìa
khóa mở cánh cửa về quê hương cực lạc. Phật dạy trong kinh thì cỏi cực lạc có
chín phẩm, tức là tùy theo căn tánh và phẩm hạnh tu học mà phẩm vị sai khác. Đối
với chúng sanh biết tu tập tốt, có đủ phẩm hạnh giải thoát, phát bồ đề tâm, hành
bồ tát đạo, phát nguyện niệm Phật thì chắc chắn về thượng phẩm cỏi Tây Phương.
Hình ảnh đó như anh học trò giỏi, chăm học, được trúng tuyển thi cử là lẽ tất
nhiên.
Đối với chúng sanh ở đời tạo nhiều ác
nghiệp, ngũ nghịch nếu biết hồi tâm niệm Phật, cho dù chỉ mười niệm niệm Phật
trước giờ lâm chung (Chết) thành tựu cũng được vãng sanh. Ý nghĩa này, giáo lý
Tịnh Độ gọi là “Đới Nghiệp Vãng Sanh”, tức chưa dứt hết phiền não mà được sanh
về cực lạc. Mười niệm Vãng Sanh là bổn nguyện từ bi của Phật nhắm đến chúng sanh
tội nặng phước mỏng mà cứu độ. Cũng như vị thầy giáo gương mẫu nhiệt tâm giúp đỡ
cho em học trò kém, cần dạy kèm thêm với phương pháp đặc biệt.
4- Tâm niệm Phật trước giờ lâm
chung
Đối người tu Tịnh độ, tâm lý trước giờ lâm
chung rất quan trọng. Đặc biệt, người chưa từng tu hành và tạo nhiều tội lỗi,
giờ phút cuối đời có duyên lành hồi tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ thì pháp mười
niệm Phật là cơ hội cứu thoát độc nhất vô nhị. Kinh dạy rằng: “Người ngu ấy, lúc lâm chung, gặp thiện tri
thức dùng nhiều lời an ủi, vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật” . Vì sao gọi là ngu? Do vô minh mà tạo ra
nhiều điều bất thiện, như ngũ nghịch, thập ác trôi lăn trong lục đạo luân hồi
gọi là ngu. Nay gặp thiện tri thức nói diệu Pháp mới biết phát tâm niệm Phật.
Người đó phải khởi tâm sám hối nghiệp chướng, nguyện bỏ ác làm lành, phát bồ đề
tâm và niệm Phật mới thành tựu.
Do nhất tâm niệm Phật nên vọng niệm điên
đảo dứt trừ. Nhân gian có câu: “Đồ tể
buông dao thành Phật”, Phật gia có câu: “Quay đầu về bờ giác”. Người ấy sanh
tâm nhàm chán và xả ly mọi luyến ái cỏi đời. Tâm lý ấy phải như người đi rớt vào
hầm lửa cháy bỏng được cứu ra rồi không dám trở lại. Người ác tạo tội mong thoát
ly luân hồi cầu sanh cỏi cực lạc cũng như thế. Người đó mong được Phật tiếp độ
về Tây Phương tha thiết như con thơ mong mẹ hiền cứu ra khỏi hố lửa đến nơi an
toàn. Do sự tha thiết cầu sanh Tịnh Độ như thế gọi là Tâm dõng mảnh nên được
sanh về cỏi Cực Lạc. Theo Trí Lễ đại sư thì nhận định rằng: “Nếu
mười niệm xưng danh hiệu Phật không tán loạn thì nhiếp vào định, lại khi mạng
chung có tâm lực dõng mãnh, cho nên dự vào phẩm thứ chín vậy”. Trí Khải đại sư
lập luận rằng: Mười niệm hay một niệm lúc lâm chung được vãng sanh là do niệm
Phật tiêu trừ tội chướng: “Dĩ niệm Phật trừ diệt tội chướng”, tức là niệm Phật
năng trừ tám mươi ức kiếp trọng tội trong sanh tử.
5- Lời Kết:
Như trên đã trình bày, giáo lý Tịnh Độ và
pháp mười niệm niệm Phật vãng sanh được bảo chứng qua kinh điển Phật dạy, qua
luận sớ của chư vị tổ sư. Từ Tín khởi Nguyện, từ Nguyện khởi Hạnh để niệm Phật
vãng sanh Tịnh độ. Đức Phật A Di Đà tướng hảo quang minh, tay bắt ấn kiết tường,
tay duổi xuống như đang vẫy gọi và chờ đợi chúng sanh xả ly vọng trần hồi quy
tịnh độ. Bốn mươi tám lời nguyện cứu độ chúng sanh thoát khỏi biển khổ.
Niệm Phật để thành Phật, tu theo hạnh của
Phật hồi hướng công đức đến mọi loài đồng sanh Tịnh Độ. Bất cứ pháp môn nào
trong Phật giáo cũng đòi hỏi sự thực nghiệm tu học. Pháp mười niệm vãng sanh là
bổn nguyện từ bi vô lượng của Phật cũng thế, nó được thể hiện thành tựu bởi tâm
hành giả trước lúc lâm chung tương ưng với Phật lực. Nếu chỉ dựa theo tri thức
phân biệt và dừng lại trên ngôn từ suy lường thì không bao giờ cảm ứng sự nhiệm
mầu con đường về cõi Phật.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.23/7/2014.
|
No comments:
Post a Comment