Sunday 28 September 2014

Giới luật là nguồn sinh lực Tăng già và nền tảng xây dựng đạo đức xã hội
            

Ngay từ thời cổ đại, khi con người biết tụ tập nhóm họp, sinh hoạt thành bầy đoàn và phân công lao động thì cũng chính là lúc họ biết định đặt ra những điều lệ, quy ước để cho mọi người cùng nương theo đó thực hành nghĩa vụ cũng như có thể nhờ đó mà bảo đảm được lợi ích và quyền lợi của những người sống trong tập thể quần cư đó.

I. DẪN NHẬP
Ngay từ thời cổ đại, khi con người biết tụ tập nhóm họp, sinh hoạt thành bầy đoàn và phân công lao động thì cũng chính là lúc họ biết định đặt ra những điều lệ, quy ước để cho mọi người cùng nương theo đó thực hành nghĩa vụ cũng như có thể nhờ đó mà bảo đảm được lợi ích và quyền lợi của những người sống trong tập thể quần cư đó. Dần dần theo thời gian, xã hội ngày một văn minh và phát triển, khi họ biết xây dựng quốc gia chủng tộc thì cũng là lúc họ xây dựng nên nền hiến pháp, luật lệ của đất nước và chủng tộc ấy. Cứ như vậy, mỗi một nhóm, tổ chức ra đời lại đặt ra những pháp luật, nguyên tắc, luật lệ của những tổ chức ấy, ngay cả giới luật của các tôn giáo.
Như vậy, pháp luật hay giới luật là những điều ước, quy định mà như ta thấy nhằm để bảo vệ, xây dựng và phát triển cộng đồng ấy ngày càng văn minh, vững mạnh.
Phật giáo cũng vậy, theo quy luật tất yếu của tự nhiên, xuất hiện trong một xã hội lắm biến động và tham vọng, con người luôn luôn biến đổi bởi những điều kiện vật dục, tất nhiên không thể nào không lấy giới luật làm nền tảng để bảo vệ đời sống thanh tịnh và hoà hợp tăng già. Thế nhưng, vượt lên trên, Giới luật Phật giáo không những bảo vệ đời sống, là nguồn sinh lực của tăng già mà như chúng ta thấy, nó còn là nền tảng để xây dựng đạo đức xã hội, là con đường đưa đến bến bờ giải thoát.
“Giới luật là thọ mạng của phật pháp, giới luật còn là Phật pháp còn”.[1] Vì thế cho nên trong kinh Di giáo, lúc sắp nhập Niết bàn, đức Phật đã ân cần tha thiết dặn dò các hàng Tỳ Kheo: “các Thầy Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các Thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy…” (Kinh Di Giáo, HT.Trí Quang dịch)
Xem thế thì đủ biết giới luật trong Phật giáo quan trọng đến mức nào. Tuy nhiên, để thấy rõ giá trị “Giới luật là nguồn sinh lực tăng già và là nền tảng xây dựng đạo đức xã hội” một cách sâu rộng chúng ta sẽ tìm hiểu những chi tiết dưới đây.
 
II. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI GIỚI LUẬT
1. Định Nghĩa
Giới luật là tiếng gọi chung cho tất cả hệ thống giới luật của Phật giáo. Về đại thể thì có sự tương đồng bởi tất cả đều chỉ chung cho những quy tắc, luật lệ nhưng về chi tiết thì chúng có sự khác nhau.
a. Giới (Sìla): nghĩa là “phòng ngừa tội lỗi, ngăn cấm hành động ác, kìm hãm dục vọng và câu thúc đời sống tư hữu của mình hầu mong tiến dần đến quả vị giác ngộ”.[2]
Giới cũng có nghĩa là “phòng phi chỉ ác” (ngăn ngừa điều quấy, chấm dứt điều ác). Nó chính là phương tiện để giúp cho hành giả đạt đến một cảnh giới giải thoát cao xa bằng cách loại trừ dần những tâm niệm xấu xa, vị kỷ, tư dục thấp hèn.
b. Ba La Đề Mộc Xoa (Pràtimoksa): có nghĩa là Biệt giải thoát luật nghi, xứ xứ giải thoát hay còn gọi là tuỳ thuận giải thoát. Trong Thực Dụng Phật Học Từ Điển định nghĩa: “Các giới luật mà bảy chúng lãnh thọ mỗi mỗi đều hướng đến việc giải thoát ba ác nghiệp và thất chi tội, vì để phân biệt sự khác nhau với Định cộng giới và Đạo Cộng giới nên gọi Biệt giải thoát giới. Cũng còn dịch làTuỳ thuận giải thoát bởi giới luật tuỳ thuận theo hai quả giải thoát hữu vi và Vô vi nên gọi như vậy”.[3]
c. Luật hay còn gọi Tỳ Ni (Vinaya) có nghĩa là pháp luật hay cấm chế. Tức là những nguyên tắc, quy luật, điều lệ nhằm quy định những lối hành xử của tăng già trên nguyên tắc hành xử pháp yết ma của tập thể tăng già đó. Như vậy, Giới là những điều bảo vệ cá nhân người trì giới thì luật lại là những điều để bảo vệ sự thanh tịnh và hoà hợp trong tăng già. “Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của sinh hoạt Tỳ kheo, và luật lại chính là phương thuốc ngăn ngừa sự hư hỏng của giới”.[4]
Do vậy, Giới luật được ví như hàng rào, tường thành thành bảo vệ, như chiếc phao nổi để cứu vớt những người đang sắp chết chìm và cũng như những tràng hoa để trang sức. Người muốn an lạc, thánh thiện và trang nghiêm không thể không thọ trì giới luật
2. Phân loại
Giới luật được đức Phật tuỳ theo từng hạng người mà chế định những điều giới khác nhau thế nhưng tóm lược lại thì chỉ nằm trong ba loại chính yếu như sau:
a. Nhiếp luật nghi giới: giữ gìn tất cả các luật nghi không cho phạm ác pháp, bao gồm tất cả các loại giới tại gia và xuất gia: Ngũ giới, thập thiện, Sa di và Tỳ Kheo.
b. Nhiếp thiện pháp giới: lấy việc thực hành tất cả các điều thiện làm giới.
c. Nhiêu ích hữu tình giới: lấy việc nhiếp thọ, hoá độ tất cả chúng sanh làm giới.
Ngoài ra còn có Định cộng giới là giới do tu tập thiền định mà thân tâm thanh tịnh, giới được cụ túc. Giới định tương ưng nên gọi Định cộng giới.
Đạo cộng giới là sự giải thoát mọi trói buộc thân khẩu nghiệp nhờ nơi trí tuệ, lấy trí tuệ làm giới. Do tu tập vô lậu nghiệp mà được vô lậu trí. Giới Tuệ tương ưng nên gọi Đạo cộng giới.
III. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH GIỚI LUẬT
1. Về Thời gian: Như mọi người đều biết, không phải ngay sau khi đức Phật thành đạo hay lúc thành lập tăng đoàn giới luật được ra đời mà phải đợi đến năm thứ 13 theo bộ Đàm Vô Đức (năm thứ 5 theo bộ luật Ngũ Phần) giới luật mới bắt đầu xuất hiện.
Trong thời kỳ đầu của Phật pháp, tăng đoàn Phật giáo là một tập thể hoà hợp thanh tịnh, không cần có bất cứ một điều giới nào ràng buộc. Tất nhiên chư tăng lúc ấy được gọi là Vô sự tăng, là những người hoàn toàn thanh tịnh mà chưa có bất cứ dục vọng hữu lậu nào. Bất cứ người nào muốn xuất gia, tham gia vào đời sống sinh hoạt vô dục thanh tịnh và hoà hợp thì đức Phật chỉ cần nói: “thiện lai Tỳ kheo”, tức khắc vị ấy trở thành một tỳ kheo như pháp và là thành viên của tăng đoàn ấy.
2. Nguyên Nhân: Càng về sau, do tăng đoàn ngày càng đông, đời sống bắt đầu có sự hỗn tạp cộng với sự cung dưỡng ngày càng nồng hậu của các hàng vua chúa, quý tộc, đại thần nên bắt đầu có nhiều kẻ lợi dụng trà trộn vào. Do đó nếp sống thuần thanh tịnh hoà hợp của cuộc sống Vô sự tăng bị ô nhiễm.

Cũng như xã hội loài người, khi chưa có sự tạo tác, cất chứa của cải riêng tư thì con người trong xã hội ấy sống rất hoà hợp, đoàn kết nhưng bắt đầu từ khi có sự tích tụ tư sản thì sự chiếm hữu và chiến tranh giành giật nảy sinh. Như vậy, nguyên nhân dẫn đến sự đấu tranh và chiếm hữu là bởi tích tụ tư sản.

Tăng đoàn Phật giáo cũng thế, trong thời gian đầu, mỗi người chỉ có 3 y, bát, cụ nên tăng già thanh tịnh. Khi có sự chất chứa, tích tụ thì ai cũng muốn chiếm hữu phần lợi về mình, tham tâm nổi lên, chơn tâm xuất gia bị phai nhạt và biến mất. Lúc ấy ai cũng chỉ lo bồi đắp, xây dựng cho cá nhân mình sung túc mà đánh mất tinh thần đoàn kết, hoà hợp và thanh tịnh của tăng đoàn lẫn những sự đấu đá về sau.[5] Chính từ những hữu lậu bắt đầu phát sinh ấy, để bảo vệ đời sống tăng già, đức Phật mới chế giới luật. Và từ đó, giới luật Phật giáo được hình thành.
 
IV. ĐẶC ĐIỂM GIỚI LUẬT
Từ sự hình thành trên ta có thể thấy giới luật Phật giáo có những đặc tính sau:
1. Giới Luật Vì Con Người, Của Con Người: Xuất phát từ sự muốn bảo vệ sự thanh tịnh và hoà hợp trong tăng đoàn, cũng như tránh mọi hữu lậu phát sinh về sau để tăng thêm nguồn an lạc cho các Tỳ kheo, giới luật được chế định. Như vậy, nó đã thõa mãn điều kiện thứ nhất là vì con người, xuất phát từ con người và hoàn toàn không mang bất cứ bóng dáng của thần thánh hay thượng đế nào. Nó không phải là một loại giới do Thượng đế áp đặt, bắt con người phải tuân theo một cách tuyệt đối, nếu không sẽ bị đoạ hoả ngục như một số tôn giáo khác rêu rao.
2. Ba Yếu Tố (Mục Đích) Của Việc Chế Giới: Xã hội không phải là một cá nhân đơn lẻ mà cả một tập thể. Do đó, trong cuộc sống, nếu không không có giới luật quy ước thì sẽ khó mà bảo vệ được đoàn thể tăng già và sự an lạc của tự thân và tha nhân. Do vậy, giới pháp Phật chế ra cũng không ngoài ba yếu tố chính:
a. Phòng ngừa sự chướng ngăn thánh đạo
b. Bảo vệ sự hoà hợp trong Tăng thân
c. Tránh sự cơ hiềm của thế gian.
3. Tinh Thần Tùy Phạm Tùy Chế: là một tinh thần mang dấu ấn sâu sắc, đặc biệt nhất mà không phải tôn giáo nào cũng có được. Điều ấy có nghĩa rằng tuỳ theo sự hư hoại hạnh thanh tịnh và hữu lậu phát sinh tới đâu thì giới luật của Phật giáo được chế định đến đó. Chưa bao giờ và cũng không bao giờ giới luật Phật giáo đặt ra những giới luật vô cớ để ràng buộc, gò bó đời sống giải thoát của con người. Khi một tỳ kheo phạm phải một vấn đề nào đó thì một điều giới được ban hành. Sau đó, tuỳ theo nhu cầu, nếu thấy vấn đề đó cần được cải đổi hay gia tăng thì ngài liền tuỳ theo đó mà chế định. Bằng chứng là năm thứ 13 ngài mới chế giới.
Có lần Ngài xá Lợi Phất nhập định thấy chư Phật trong đời quá khứ do chế định giới luật mà chánh pháp được tồn tại lâu dài. Do đó, tôn giả mới thỉnh đức Phật chế định giới pháp. Ngài liền dạy: “thôi xá Lợi Phất, ta biết thời mà, bây giờ người nhỏ nhất trong chúng của ta cũng chứng Sơ quả Tu Đà Hoàn thì cần gì phải chế giới”.[6] Ngài từ chối lời đề nghị này bởi ngài biết thời cơ và lúc nào thì nên làm. Ngài không muốn chế định giới luật theo kiểu áp đặt, bởi tự dưng chế giới thì chúng tỳ kheo có thể lầm hiểu rằng đức Phật không thật sự tôn trọng họ. Như vậy, giới Phật giáo là giới luật tuỳ phạm tuỳ chế.
4. Tính Linh Hoạt Khi Trì Giới: Từ tinh thần “tuỳ phạm tuỳ chế” nên khi thọ trì giới pháp, giới luật được vận dụng hết sức linh động. Trong luật Ngũ Phần, quyển 22, đức Phật dạy: “Tuy là điều ta cấm chế, mà nơi khác không cho đó là thanh tịnh, đều không nên dùng; tuy chẳng là điều chính ta chế cấm, nơi khác thấy cần nên làm, thì chẳng được chẳng làm”.[7] Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, địa phương mà giới luật của Phật cũng biến đổi khác nhau, miễn sao phù hợp với tinh thần giải thoát và bảo đảm được sự thanh tịnh, hoà hợp trong tăng đoàn. Tuy nhiên, những điều khai mở và linh động trên cũng chỉ thuộc những điều về Giá (già) giới, tức là những phương tiện, còn Tánh giới (bản chất của việc làm ấy là ác) thì tuyệt đối đức Phật không khai, dù bất cứ lí do gì và ở nơi đâu. Tất nhiên sự ngăn cấm hay linh động ấy cũng chỉ vì bảo hộ chứ không phải ràng buộc hay gò bó đời sống an lạc của chư tăng. Trong giới luật có rất nhiều những câu chuyện nói về tính linh hoạt này và đó chính là nét đặc trưng quý báu thể hiện tính nhân bản, tính tự do của Phật giáo.
V. GIỚI LUẬT-NGUỒN SINH LỰC TĂNG GIÀ
1. Tăng già là gì?
Tăng già đựơc phiên âm từ tiếng Phạn là Samgha, có nghĩa là một hội chúng trong đó mọi người “cùng sinh hoạt dưới sự chi phối của một số nguyên tắc của nội quy và quy luật của tập thể, cùng có những quan hệ bình đẳng và hợp lí về các nghĩa vụ quyền lợi, cùng hướng đến mục đích chung”.[8]
Danh từ tăng già, do vậy, không phải chỉ để dành chỉ riêng cho đoàn thể tăng già Phật giáo mà ngay từ trước đức Phật, nó đã được dùng để chỉ cho những đoàn thể tăng già khác như Bà la môn v.v… tuy nhiên khi nó được áp dụng vào Phật giáo thì từ này nó cũng mang một ý nghĩa khác, với một ý nghĩa tích cực và hướng thượng hơn bởi nó vượt ra ngoài những ý nghĩa ước lệ thông thường. Tăng già Phật giáo “không đơn giản là một cộng đồng hoà hợp, mặc dù tinh thần hoà hợp là sinh mạng của bất cứ cộng đồng nào trong xã hội loài người. Nó cũng không đơn giản là một cộng đồng gồm những người có cùng chung mục đích, một lí tưởng mặc dù đó là động lực cơ bản cho bất cứ sự đoàn kết và hoà hợp tăng già, cộng đồng đệ tử xuất gia của Phật, trong ý nghĩa mà đức Phật thiết lập, phải là mảnh đất tốt cho sự tăng trưởng của thiện pháp, là nền tảng cho tất cả mọi sự tiến bộ tâm linh, tức là những phát triển của nhận thức chân chính về sự thật của đời sống vì chỉ có nhận thức ấy trí tuệ vô lậu mới có thể giải thoát những khổ đau của con người”.[9] Theo ý nghĩa này thì cộng đồng tăng già của Phật giáo không phải là một sự ngẫu hợp của những người cùng một mục đích lí tưởng để bảo vệ quyền lợi của họ.
2. Thành Phần Cấu Tạo Nên Tăng Già
Để hình thành nên tăng già, theo Phật giáo phải có ít nhất từ 4 vị tỳ kheo trở lên, không được dưới. Và tư cách của những thành viên trong ấy phải là Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, những người có đầy đủ tư cách và phải thanh tịnh để hình thành nên một đoàn thể hoà hợp và thanh tịnh. Tất nhiên, ngoài hai hạng trên, những hạng người khác dù có vượt con số 4 người, cho đến đông vô số cũng không thể được gọi là tăng.
3. Giới Luật Là Nguồn Sinh Lực Tăng Già
a. Thanh Tịnh, Hoà Hợp Là Nền Tảng Của Tăng Già
 Để hình thành Tăng già thì cần có nhiều nhiều điều kiện nhưng đặc tính để tăng già tồn tại chính là tức tinh thần hoà hợp và thành tịnh. Nhờ tinh thần này mà tăng già mới là nơi nương tựa an ổn và vững chắc nhất cho tất cả mọi người và là mảnh đất tốt để phát sinh công đức. Trong 45 năm hoá độ, tuỳ theo những hữu lậu phát sinh từ các hàng tỳ kheo mà đức Phật đã chế ra không biết bao nhiêu giới luật, mỗi mỗi giới đều mang những đặc tính và ý nghĩa riêng, đối trị từng căn bệnh, thế nhưng tất cả các giới ấy đều có chung hai đặc tính cơ bản đó là sự thanh tịnh và hoà hợp.
“Thanh tịnh và hoà hợp là điều kiện chính yếu để hình thành một giáo hội tăng già lớn mạnh đặc trưng cho tinh thần giải thoát”.[10] Và bởi do thanh tịnh và hoà hợp tạo nên bản thể đích thực của tăng già từ đó tạo nên chỗ nương tựa xứng đáng, là chỗ ý cứ cho phật tử tại gia. Do vậy, bất cứ lúc nào và ở đâu hai tinh thần này không thể thiếu. Nếu tăng già nhóm họp trong tinh thần hoà hợp mà không phản ánh đúng tinh thần giáo lý cơ bản của phật pháp, tức là không thể diệt trừ được những ác nghiệp từ thân khẩu ý (thanh tịnh) và phát sinh nên nghiệp quả vô lậu - giải thoát - thì vẫn gọi là hoà hợp phi pháp.[11] Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò của sự hoà hợp, giữa hai yếu tố này nó tương quan mật thiết với nhau, chúng bổ túc cho nhau để tạo nên một nền tảng vững chãi, là “mảnh đất tốt sinh trưởng thiện pháp”. Hoà hợp và thanh tịnh cũng như hai chân của con người, nhờ nó mà chúng ta có thể đi, thiếu một trong hai thì không thể nao đứng vững được.
b. Giới Luật Bảo Hộ Sự Thanh Tịnh Và Hoà Hợp
Như đã trình bày, trong 13 năm đầu tiên sau khi Phật thành đạo tăng già hoàn toàn thanh tịnh và hoà hợp mà không cần bất cứ một thứ gì ràng buộc, gò bó mà phải đợi khi có hữu lậu phát sinh thì giới luật mới được hình thành. Nếu không có giới luật phòng ngừa, ngăn chặn những ác pháp và xử trị những trường hợp phi pháp ấy thì không những cá nhân gây nên những ác nghiệp sa đoạ mà tăng già cũng không còn được giữ nguyên vẻ đẹp trinh nguyên của nó, bởi tăng già được hình thành từ những cá nhân. Một tập thể mà trong đó cá nhân không thanh tịnh thì làm sao xây dựng nên xã hội thanh tịnh, hoà hợp.
Tuy nhiên, để các cá nhân thanh tịnh và có thể hoà hợp thì không thể nào khác hơn là phải dùng tới giới luật. Nhờ giới luật mà các thành viên trong ấy biết khắc phục, điều tiết những hành động của mình và tuân thủ các nguyên tắc chung. Không có giới luật làm nền tảng, mỗi người sinh hoạt mỗi cách thì sự ô hợp nảy sinh là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Do vậy, chính giới luật mới là nguồn sinh lực của tăng già, giới là vòng hoa trang sức các cá nhân cũng là những tràng hoa trang hoàng ngôi nhà tăng đoàn Phật giáo. Trong “Mười điều lợi ích của giới luật” [12] ta thấy hầu hết những điều ấy đều nhằm xây dựng và bảo vệ sự an lạc tăng thân. Đặc biệt điều thứ 10, nếu giữ gìn giới pháp không những cá nhân thanh tịnh, tăng đoàn an lạc mà còn khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
Vì lợi ích và sự quan trọng như thế nên giới luật luôn luôn được đề cao và ca ngợi. Kinh Hoa nghiêm nói: “Giới là gốc của vô thượng bồ đề”; hay “thọ Phật giới tức nhập chư Phật vị” v.v… nghĩa là muốn bước lên quả vị vô thượng giác, muốn hoàn thành nhân cách (theo Phật giáo) thì không thể nào không thọ Phật giới, từ giới pháp này mà các thiện pháp được phát sinh, tăng trưởng.
Trong luật Thiện Kiến đức Phật dạy A Nan có năm điều khiến chánh pháp tồn tại lâu dài:
- Một, sau khi như Lai diệt độ phải lấy giới luật làm thầy.
- Hai, ở đời ít nhất có năm người trì giới.
- Ba, khi truyền cụ túc ở trung thiên trúc thì cần 10 vị, biên địa cần 5 vị.
- Bốn, khi xuất tội tăng tàn cần phải đủ 20 vị tăng.
- Năm, nhờ vào các vị luật sư.[13]
Lại trong Tứ Phần Luật San Bổ Yết Ma Huyền Ty Sao cũng nêu lên năm nguyên nhân khiến cho tăng già suy vi, chánh pháp mau hoại diệt:
- Tỳ kheo không lóng nghe kỹ tụng luật, ưa quên văn cú lại dạy người khác, khiến cho văn đó không đủ, nghĩa bị thiếu sót.
- Bực thượng toạ hơn người mà không trì giới mà làm ác khiến hậu sanh bắt chước.
- Tỳ kheo trì pháp, luật, luận mà không dạy người.
- Tỳ kheo khó dạy bảo không nghe, các tỳ kheo khác xả trí (không ai nói đến).
- Mắng nhiếc và tìm việc tốt xấu lẫn nhau.[14]
Trong trường hợp một tỳ kheo không thanh tịnh sống trong tăng đoàn thì cần phải có phương pháp xử trị như trong kinh Tăng Chi đã nói: “Nếu Tỳ kheo nào không giữ được hạnh thanh tịnh thì tăng thân sẽ không sống chung với người ấy, hãy nhanh chóng tụ họp và loại kẻ ấy ra”.[15]
Lịch sử hình thành và tồn tại của tăng già Phật giáo trải qua nhiều thời kỳ đã nói lên điều đó. Khi nào chúng tăng thọ trì tịnh giới tinh nghiêm và trong tăng hoà hợp thanh tịnh thì chánh pháp tồn tại lâu dài và hưng thịnh. Ngược lại là sự suy vi như chứng ta đã từng thấy. Do vậy, “sự toàn thiện đạo đức của mỗi cá nhân là nét đẹp trang nghiêm của đoàn thể. Mỗi tỳ kheo hay Tỳ kheo ni sống đúng như pháp, như luật là nguồn năng lực vô biên cho sự lớn mạnh tăng già”.[16]
 
VI. GIỚI LUẬT – NỀN TẢNG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
1. Quan Niệm Về Đạo Đức
Nói đến đạo đức là nói đến một phạm trù khái niệm rộng lớn được thể hiện qua những quan niệm của những tập thể, dân tộc hay quốc gia nào đó. Có thể ở mỗi quốc gia có những quan niệm về đạo đức khác nhau nhưng vấn đề cơ bản vẫn không ra ngoài quan niệm về luân lý nhân sinh của con người như thiện ác, hạnh phúc, công bằng, tự do v.v… theo chuẩn tắc chân thiện mỹ. Và tất nhiên, nền đạo đức chân chính phải vì con người. Socrate, một triết gia cổ Hy Lạp nói:“một nền đạo đức thì không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có thể tạo dựng một nền luân lí không phụ thuộc vào thần học, hoàn toàn thích hợp với những người có tôn giáo cũng như không tôn giáo thì xã hội mới ổn định”.[17]
2. Nền Tảng Xây Dựng Đạo Đức Theo Giới Luật Phật Giáo 
Đạo Phật sống không phải vì cá nhân mà vì xã hội do đó đạo Phật tồn tại cũng không ngoài xã hội. Tuy hướng về mục đích giải thoát nhưng tinh thần của Phật giáo là tinh thần nhập thế dấn thân, đặt nền tảng lợi ích của tập thể, của số đông lên trên mọi lợi ích của cá nhân. Chính ý nghĩa của Tăng già đã khẳng định nên tinh thần đó. Do vì Phật giáo luôn đề cao lợi ích của con người nên giới luật Phật giáo không thể tách rời hay biệt lập với nền đạo đức thế gian.
Trong một chừng mực nào đó thể coi đạo đức đồng nghĩa với hạnh phúc. Do vậy, nếu hạnh phúc là đích đến của xã hội thì giới luật Phật giáo hoàn toàn đáp ứng một cách đầy đủ các điều kiện để xây dựng nền tảng đạo đức, hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp và thái bình. Bởi giới luật Phật giáo được xây dựng trên căn bản Giới Định Tuệ. Giới định tuệ là ba mặt của một vấn đề, không thể tách rời nhau. Trong giới luôn có sự hiện hữu của Định, Tuệ. Định và Tuệ làm điểm tựa và soi sáng cho Giới.
Đời sống xã hội từ xưa đến nay luôn luôn biến động và đầy dẫy những sự bất công, thù nghịch. Hết chuyện này đến chuyện khác, từ sự giành giựt nhau một miếng ăn nho nhỏ đến sự tranh chấp giữa những quyền lợi giữa các gia đình, xóm làng và cả chiến tranh thôn tính lẫn nhau; Rồi nào là ỷ mạnh hiếp yếu, tàn sát những lương dân vô tội; đâm thuê chém mướn; trong gia đình vợ chồng không tin tưởng nhau, cha mẹ con cái bất hoà; người lường kẻ gạt; kẻ say người xỉn dẫn đến những hành động không biết đến lương tri đạo đức v.v… những sự việc như vậy ta có thể bắt gặp, nghe thấy ở bất cứ nơi nào, bất cứ thời điểm nào. Tại sao lại như vậy, tại họ thiếu tình thương, thiếu sự hiểu biết thông cảm lẫn nhau nên mới đưa đến những sự việc như vậy.
Trước tình cảnh ấy, Phật giáo xây dựng nên năm giới như là thước đo, là thành trì để bảo vệ, xây dựng hạnh phúc, đạo đức xã hội. Tuy nhiên, năm giới là điều kiện tối thiểu mà không phải là tất cả của người phật tử. Nếu thực hành được năm giới này một cách hoàn chỉnh chính là đã xây dựng một thế giới an bình hạnh phúc, hay một nhân gian tịnh độ, theo Phật giáo. Vậy năm giới ấy là gì? Đó là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không uống rượu.
Trong năm giới ấy, mỗi mỗi đều được xây dựng trong tinh thần xây dựng, bảo vệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Khi mình giữ giới không những cá nhân được lợi ích mà cả những người chung quanh cũng hưởng những hạnh phúc theo. Như các bậc cổ nhân thường nói: “Nhất nhơn tác phước thiên nhân hưởng, độc thọ khai hoa vạn thọ hương” là bởi ý ấy. Ngoài ra năm giới còn có một số tính chất tiêu biểu cơ bản như sau:
a. Mọi người ai cũng muốn bảo vệ đời sống, thân mạng, của cải, hạnh phúc của mình mà không muốn có bất cứ sự xâm hại nào từ người khác. Không muốn người làm tổn hại mình thì mình cũng không làm tổn hại người. Như vậy hạnh phúc ở đây luôn được bảo vệ bởi tính chất hai mặt của sự thọ trì giới. Ngoài ra, mình sẽ không bị quả báo cũng như kết những mối oán thù bởi do mình thọ trì giới này.
b. Ý thức được rằng, nếu không thực hành những điều giới trên thì không những cá nhân mình bị tổn hại mà gia đình, xóm làng và xã hội mình chung sống không những không bảo toàn được sự an lạc, hạnh phúc mà còn có thể là nguyên nhân dẫn đến những sự đấu tranh, xung đột và có thể tiêu diệt lẫn nhau. Do đó, không làm điều ác mà cần phải làm điều thiện; không gây tổn hại mạng sống, của cải, phẩm hạnh mà còn phải bố thí; không trộm cướp mà phải phóng sanh; không tà hạnh mà phải bảo vệ phẩm hạnh của tất cả mọi người; không nói dối, dua nịnh mà nói những lời ngay thẳng, chân thật, lợi ích; không uống, sử dụng những thứ chất làm cho say đắm tâm hồn mà cần phải xoá tan những thứ ấy và làm cho cuộc sống trong sạch hơn.
c. Thọ trì năm giới là thực hành năm sự bố thí vô hạn hay còn gọi là Ngũ đại thí giới. Bởi không giết hại thì mọi người chung quanh không có còn lo sợ sát hại; không trộm cắp thì mọi người không còn sợ mất trộm và cướp giựt; không tà hạnh thì mọi người không còn lo sợ có người quấy nhiễu… Chính nhờ thọ trì giới mà mọi người luôn yên ổn, hạnh phúc, tin tưởng lẫn nhau, cuộc sống không còn sợ sệt thì tất nhiên bóng dáng của khổ đau cũng không còn.
d. Giới luật của Phật giáo được xây dựng trên nền tảng Từ bi và trí huệ cho nên ngũ giới cũng có nền tảng là từ bi và trí tuệ. Điều cần phải chú ý khi thọ trì ngũ giới là phải luôn thực hành, xây dựng tình thương và trí tuệ. Tình thương để bồi đắp, xây dựng cuộc sống thêm đáng yêu đáng sống; trí tuệ để thấy, để nhận biết những ác pháp, lỗi lầm mà tranh xa. Vì thế, trì ngũ giới cũng chính là thực tập tâm từ bi và trí tuệ. Và đây cũng chính là nét đặc biệt nhất của Ngũ giới hay Phật giới.
Với những điều trình bày ở trên, tuy có thể chưa đầy đủ những nét đăc sắc của giới luật Phật giáo nhưng ở một chừng mực nào đó đã cho chúng ta thấy được những điểm trọng yếu, cơ bản để xây dựng nền tảng đạo đức thế gian. 
 
VII. GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI
Giới luật Phật giáo ngay từ xưa đã khẳng định được vai trò trọng yếu của nó trong đời sống tăng đoàn cũng như sự trường tồn của chánh pháp. Và ngày nay, giới luật không những không còn giá trị mà ngược lại nó lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Chúng ta cần lưu ý rằng, thời Phật tại thế, Tăng đoàn đa phần là những bậc thánh giả vô lậu tu tập, sinh hoạt thế mà vẫn còn có những hữu lậu phát sinh làm quấy nhiễu đời sống thanh tịnh, hoà hợp đến nỗi khiến đức Phật phải chế giới luật để ngăn chặn và bảo vệ. Còn trong thời đại ngày nay, tăng đoàn Phật giáo không những bị những vật lợi ích vật chất chi phối một cách sâu nặng, tâm trí u ám, nghiệp chướng sâu dày mà bên cạnh đó còn có những kẻ lợi dụng những danh nghĩa khác nhau trà trộn vào Phật giáo để phá huỷ đạo Phật.

Hiện tượng này không phải hiếm mà nhan nhãn khắp mọi nơi, mọi tự viện và tỉnh thành. Điều đáng buồn hơn là tăng già Phật giáo lại bị điều khiển bởi những nhân vật này khiến cho Phật giáo không còn đúng với nguyên nghĩa của nó. Tất nhiên trong những trường hợp ấy, giới luật không phải không phát huy được tác dụng mà bởi vì sự lãng quên của những người hành trì hay bởi sự cố tình vùi dập của một vài thành phần bất chánh trà trộn vào trong tăng già đó.
Cũng có một số tỳ kheo, không biết vì vô tình hay cố ý, mà rêu rao huỷ bỏ giới luật hay không công nhận những giá trị của giới luật mang lại. Họ cho rằng giới luật thật sự không cần thiết trong thời đại mà ta chỉ cần bấm nút là có thể lên tới cung trăng, rằng những những người thọ trì giới luật là những người cổ lỗ xỉ, là lạc hậu. Đối với họ, chỉ cần thâu thập thật nhiều kiến thức khoa học thế gian là có thể làm thầy thiên hạ và có đủ mọi thứ cung dưỡng rồi.
Tất nhiên, nguyên nhân chủ yếu vẫn là người thọ trì Phật giới ngày hôm nay không quyết tâm, chí thiết trong thọ trì cũng như không am hiểu về luật tạng nên khi vướng mắc vào sự việc liền lúng túng không biết cách xử sự, đôi khi thành ra phá giới, phá kiến. Đức Phật dạy: “chỉ có trùng trong sư tử mới ăn thịt của sư tử”. Cũng vậy, sự hoà hợp thanh tịnh của tăng đoàn, sự trường tồn của Phật pháp nếu có hoại diệt cũng bởi chính những thành phần đệ tử Phật không thọ trì giới luật mà thôi.
VIII. KẾT LUẬN
Cần phải hiểu giới luật không phải là điều kiện tối ưu mà là điều kiện cuối cùng. Quan trọng nhất là phải tự giác ngộ bản thân và cải đổi tâm ý. Khi tâm thanh tịnh thì mọi cảnh giới đều thanh tịnh, nghiệp chướng cũng tiêu trừ. Trong trường hợp không thể bảo vệ đời sống thánh thiện giải thoát thì lúc ấy giới luật là hàng rào bảo vệ những phạm hạnh, đạo đức cũng như sự thanh tịnh, hoà hợp.
Khi nào xã hội còn có những vương mang trong vòng tội lỗi, khi nào tăng đoàn phật giáo còn có những hữu lậu phát sinh thì khi ấy vẫn cần sự hiện hữu của giới luật.
Xã hội biến đổi, thời gian biến đổi, con người cũng thay đổi thế nhưng giới luật vẫn giữ nguyên trạng thái cũ tất sẽ không phù hợp với lối sống và hoàn cảnh hiện tại. Do vậy, muốn giới luật mãi còn được lợi ích và giữ vững giá trị của nó thì đòi hỏi chúng ta cần phải có những cái nhìn thông thoáng về giới luật. Ngoại trừ những tánh giới, những điều còn lại chúng ta cần phải có một cái nhìn và ứng xử cho thật linh động phù hợp.
Tuy nhiên công việc ấy thật rất khó khăn, khó có ai dám đảm đương. Nhưng thiết nghĩ, thuở xưa, văn hoá tập tục khác nên dân tộc ta ăn mặc những trang phục khác, còn thời điểm hiện tại, thuận theo trào lưu chung, lối trang sức ăn mặc của chúng ta cũng thay đổi theo, miễn sao không có sự lập dị và trái với thuần phong mỹ tục thì sự thay đổi ấy là cần thiết. Nếu cứ khăng khăng giữ lề lói cũ thì đó chính là kẻ không nhìn thấy được giá trị của việc ăn mặc, trang sức.
“Nếu chúng ta giữ gìn những quy chế mà thực tế nó không có mội trường để “dừng ác sinh thiện” thì quả là vô bổ, nhọc sức”.[18] Do đó, Thánh giới của phật giáo sở dĩ còn mãi giá trị chính là ở tính linh hoạt và bảo đảm được sự thanh tịnh và hoà hợp trong tăng đoàn. Một khi giới luật không thoả mãn các điều kiện ấy thì thiết nghĩ giới luật chỉ là một mớ giáo điều ràng buộc con người trong khổ đau mà thôi.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.28/9/2014.

LINH HỒN BÁO MỘNG.

Hỏi: Kính thưa Thầy, trong thời gian từ lúc mới chết đến bốn mươi chín ngày, người trong nhà thường hay nằm mộng thấy người chết về.
Vậy có phải linh hồn người chết về báo mộng hay không?
Đáp: Trong nhà có người mới chết, không những 49 ngày mà còn nói rằng có thể đến khi mãn tang 2 năm, vẫn còn nằm mộng thấy người chết. Đó không phải linh hồn về báo mộng, mà chính tưởng ấm của người thân trong gia đình, vì tình cảm thương nhớ người mất, nên tưởng ấm xuất hiện giấc mộng để gặp người thân, chớ không có linh hồn nào cả.
Giấc mộng do tưởng thức hoạt động mà thành, nó thể hiện tình cảm tâm lý và sự ước ao của người sống đối với người chết. Người thân thương nhớ người quá cố thì nằm mơ thấy người chết về.
Ước muốn thì sẽ nằm mộng, thấy thành tựu điều ao ước như trúng vé số, hoặc giao cảm nằm mộng thấy sự việc hay tai nạn xảy đến, đều có đúng như thật, đó là tưởng giao cảm biến thành mộng báo trước (trực giác qua mộng). Còn các loại trực giác khác như trực giác qua thân (máy mắt, hồi hộp, tim đập), trực giác qua tâm (tâm lo lắng, nghĩ ngợi).
Nói về mộng thì quý phật tử đừng nghĩ rằng có linh hồn người chết, mà hãy biết đó là tưởng thức tự tạo ra bối cảnh theo tâm lý tình cảm của con người rồi nó tự hiện, chủ khách đều là nó cả.
Trong thân ngũ uẩn nó là tưởng uẩn, còn gọi về thức thì nó gọi là tưởng thức, còn gọi về dục thì nó gọi là tưởng dục, còn gọi về vô minh thì nó được gọi là vô minh tưởng, và gọi về trí tuệ thì nó gọi là tưởng tuệ, còn gọi về tri kiến thì nó gọi là tưởng kiến, còn gọi về tri thì nó gọi là tưởng tri.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.28/9/2014.

Sunday 14 September 2014

Hướng Dẫn Thực Tập Thiền Căn Bản.
"Này các tỷ kheo, ta thường tu tập phương pháp quán niệm hơi thở này trong hầu hết thời giờ của ta. Và nhờ sống trong tu tập phương pháp này mà thân thể và đôi mắt ta không hề mệt nhọc; nhờ kết quả ấy mà tâm ta giải thoát các lậu hoặc."
Quán Niệm Hơi Thở

I. Chuẩn Bị Tư Thế Ngồi Thiền

Thân: Bạn có thể ngồi xếp bằng, kiết già, bán già, hoặc ngồi trên ghế thả hai chân xuống đất nhưng phải ngồi thẳng lưng để cho cột sống thẳng hàng. Hai bàn tay xếp bằng, gác trên chân ngay dưới bụng hoặc để trên hai đầu gối. Tư thế ngồi phải vững chãi, thảnh thơi, và an lạc.

Tâm: Tập trung sự chú ý (chú tâm) của bạn vào điểm xúc chạm của hơi thở tại vùng cửa mũi hay môi trên. Nếu cảm thấy khó chịu hay căng thẳng, có thể chuyển sự chú tâm vào vùng dưới rốn hoặc để tâm ngay trước mặt. Sự chú tâm trong lúc ngồi thiền phải đầy đủ ba yếu tố của chánh niệm (mindfulness) đó là: tỉnh thức (awareness), chú ý (attention), và tỉnh giác (alertness).

Hơi thở: Để hơi thở vô / ra tự nhiên; không cố làm cho hơi thở dài thêm hai ngắn lại. Thở đều đặn, nhẹ nhàng một cách tự nhiên. Ghi nhớ hơi thở là đối tượng duy nhất trong suốt thời gian hành thiền. Thỉnh thoảng nếu bị phóng tâm (nghĩ đến chuyện khác), bạn phải cố gắng tỉnh thức và đem tâm trở về an trú trên đối tượng thiền bằng cách theo dõi luồng hơi thở vô ra và dán chặt tâm nơi điểm xúc chạm. Hãy hình dung rằng hơi thở vô-ra là cái cộc; niệm (sự chú tâm) là sợi dây vô hình dùng để buộc tâm vào đối tượng thiền quán, không cho nó phóng túng.

II. Ba Bước Thực Tập Thiền Căn Bản

Bước một:

Biết rõ: Hơi thở vô, ra, dài, ngắn.

Bạn chỉ đơn thuần theo dõi và nhận biết rõ ràng hơi thở vô dài / hơi thở ra dài, hoặc hơi thở vô ngắn / hơi thở ra ngắn. Ở đây, bạn chỉ cố gắng biết rõ bốn biểu hiện của hơi thở: vô / ra; dài / ngắn. Phải biết rõ các biểu hiện của từng hơi thở một cách cụ thể để giữ tâm tỉnh thức, không tán loạn (suy nghĩ lung tung) và đạt đến sự định tâm. Khi tâm trở nên yên tịnh (không còn phóng tâm) và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, bạn có thể chuyển qua bước hai kế tiếp.

Bước hai:

"Cảm giác toàn thân hơi thở vô"—"Cảm giác toàn thân hơi thở ra".

Cố gắng nhận biết rõ toàn thể hơi thở, bao gồm: điểm đầu-giữa-cuối của hơi thở vô, và điểm đầu-giữa-cuối của hơi thở ra. Đây là sự nỗ lực ghi nhận toàn thể luồng hơi thở một cách rõ ràng. Điểm quan trọng của bước thực tập này là bạn nên để sự chú ý (niệm) ngay tại điểm xúc chạm và nhận biết luồng hơi thở vô ra một cách trọn vẹn. Không nên đem tâm đi theo luồng hơi thở vào bên trong cơ thể hay đi ra khỏi điểm xúc chạm; vì làm như thế tâm bạn sẽ trở nên tán loạn.

Bước Ba:

"An tịnh thân hành, tôi thở vô"—An tịnh thân hành, tôi thở ra".

Cố gắng duy trì chánh niệm và tỉnh giác về hơi thở một cách liên tục với quyết tâm làm cho hơi thở, thân, và tâm trở nên an tịnh. Nếu hơi thở vẫn chưa dịu dàng, an tịnh, bạn nên thầm khởi niệm rằng "Nguyện cho hơi thở của tôi được an tịnh." Khi phát khởi quyết tâm như thế, hơi thở sẽ dần trở nên an tịnh. Hơi thở an tịnh thì thân và tâm sẽ an tịnh. Ở bước này, hơi thở thường trở nên rất vi tế khó nhận diện; có lúc nó dường như không hiện hữu, nhưng đấy chỉ là cảm giác an tịnh của hơi thở. Bạn cứ giữ tâm tại điểm xúc chạm, hơi thở sẽ xuất hiện rõ ràng trở lại.

III. Những Lưu Ý Quan Trọng

Nếu bạn không thể định tâm bằng cách theo dõi hơi thở vô ra, bạn có thể tập cách đếm hơi thở như sau: Hít vô-thở ra đếm một, hít vô-thở ra đếm hai…, cứ như thế đếm cho tới mười rồi trở lại một. Thực tập như vậy một hồi lâu, tâm bạn sẽ an định. Khi tâm đã an định, bạn trở lại theo dõi bốn biểu hiện của hơi thở: vô, ra, dài, ngắn, hoặc toàn luồng hơi thở, như đã đề cập.

Không chuyển sự chú tâm theo dõi từ hơi thở sang các đề mục khác như tính chất vô thường, khổ, vô ngã. Ba đặc tính này thuộc về đối tượng thiền quán ở giai đoạn sau. Ở đây, mục đích chính của niệm hơi thở là để an trú tâm và để đạt đến sự an định.

Khi chuyển từ bước một sang bước hai hoặc bước ba, bạn chỉ làm một việc duy nhất đó là tác ý (khởi niệm) cảm nhận toàn thân hơi thở (bước hai), hoặc là tác ý quyết tâm đạt đến sự an tịnh của hơi thở và thân tâm (bước ba). Trong lúc tác ý, bạn vẫn duy trì sự chú tâm theo dõi hơi thở.

Năm chướng ngại (năm triền cái): Có năm chướng ngại lớn trong việc thực tập thiền định đó là: Dục (các loại tham ái), sân (các loại tâm sân hận), hôn trầm (sự lừ đừ, buồn ngủ, tâm mê mờ, dã dượi), trạo hối (tâm dao động, bất an), và nghi (nghi ngờ, thiếu niềm tin vững chắc).

Khi tâm an định trong một khoảng thời gian dài (từ một tiếng trở lên), định tướng của hơi thở, như ánh sáng hay màu sắc .v.v. sẽ xuất hiện với nhiều hình thức khác nhau tùy ở mỗi người. Bạn không nên rời hơi thở để chú tâm vào các tướng đó. Bạn phải giữ chánh niệm liên tục trên đối tượng chính là hơi thở. Cho đến khi nào hơi thở và tướng của định nhập lại thành một thể gọi là định tướng (nimitta / sign of concentration) ngay tại điểm xúc chạm; lúc bây giờ, bạn chuyển sự tập trung vào định tướng, lấy đó làm đối tượng trong lúc hành thiền. Nếu bạn có thể duy trì sự an định này trong vài tiếng đồng hồ trở lên, bạn sẽ vào Cận định (upacāra) do từ bỏ năm triền cái (xem số 4); và sẽ vào An chỉ định (appanā) khi năm thiền chi: tầm (duy trì tỉnh thức nơi đối tượng), tứ (an trú vững chắc nơi đối tượng), hỷ (hân hoan, vui mừng), lạc (an lạc), và nhất tâm (an định) sung mãn và vững chãi.

Bạn có thể ứng dụng các bước thực tập thiền niệm hơi thở vào đời sống hàng ngày trong mọi lúc, mọi nơi như đi, đứng, nằm, ngồi. Nên nhớ rằng niệm hơi thở là nền tảng của hiện pháp lạc trú (drsta-dharma-sukha-viharin / Living happily in the present moments.)

Khi đã hành trì thuần thục quán niệm hơi thở (thân niệm xứ), bạn nên tiếp tục thực tập ba bước tiếp theo (xem phần IV. 16 đề mục thiền dưới đây.)

IV. 16 Đề Mục Thiền trong Kinh Anapanasati

(I) Thân niệm xứ:

Thở vô dài, tôi biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, tôi biết: "Tôi thở ra dài".

· Thở vô ngắn, tôi biết: "Tôi thở vô ngắn". Thở ra ngắn, tôi biết: "Tôi thở ra ngắn".

· "Cảm giác toàn thân (hơi thở), tôi thở vô"—"Cảm giác cả toàn thân, tôi thở ra".

· "An tịnh thân hành, tôi thở vô"—An tịnh thân hành, tôi thở ra".

(II)Thọ Niệm Xứ:

· "Cảm giác hỷ thọ, tôi thở vô"—"Cảm giác hỷ thọ, tôi thở ra".

· "Cảm giác lạc thọ, tôi thở vô"—"Cảm giác lạc thọ, tôi thở ra".

· "Cảm giác tâm hành, tôi thở vô"—"Cảm giác tâm hành, tôi thở ra".

· "An tịnh tâm hành, tôi thở vô"—"An tịnh tâm hành, tôi thở ra".

(III)Tâm Niệm Xứ:

· "Cảm giác về tâm, tôi thở vô"—"Cảm giác về tâm, tôi thở ra".

· "Với tâm hân hoan, tôi thở vô"—"Với tâm hân hoan, tôi thở ra".

· "Với tâm định tĩnh, tôi thở vô"—"Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra".

· "Với tâm giải thoát, tôi thở vô"—"Với tâm giải thoát, tôi thở ra".

(IV) Pháp Niệm Xứ:

· "Quán vô thường, tôi thở vô"—"Quán vô thường, tôi thở ra".

· "Quán ly tham, tôi thở vô"—"Quán ly tham, tôi thở ra".

· "Quán đoạn diệt, tôi thở vô"—"Quán đoạn diệt, tôi thở ra".

· "Quán từ bỏ, tôi thở vô"—"Quán từ bỏ, tôi thở ra".


Đức Thế Tôn Đã Dạy:


"Này các tỷ kheo, ta thường tu tập phương pháp quán niệm hơi thở này trong hầu hết thời giờ của ta. Và nhờ sống trong tu tập phương pháp này mà thân thể và đôi mắt ta không hề mệt nhọc; nhờ kết quả ấy mà tâm ta giải thoát các lậu hoặc." (Sn, V, 317)

"Và này các tỷ kheo, định do quán hơi thở này, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, là an tịnh và cao thượng, là trú xứ an lạc vô nhiễm, loại trừ và làm cho tịnh chỉ các ác bất thiện tư duy ngay khi chúng khởi lên." (S. v. 321)

"Những người đã đạt được sơ thiền ở một mức độ nào đó sẽ được tái sinh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Phạm thiên. Và ngay cả sự tu tập định cận hành cũng dẫn đến sự tái sinh tốt đẹp hơn trong những thiện thú thuộc dục giới." (Visuddhimagga XI.123).HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.14/9/2014.

Saturday 13 September 2014

Chữ "KHÔNG" trong bài KINH BÁT NHÃ.
Trong kinh Bát Nhã có đoạn: "Tướng không của các pháp không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt v.v..." cho tới không mắt tai mũi lưỡi thân ý, rồi không cả sắc thinh hương vị xúc pháp v.v... tất cả đều không. Như vậy tánh Không là thực thể không của các pháp. Trên phương diện không thực thể thì không có pháp gì có thật cả, nên nói không tất cả. Ngũ uẩn không, thập nhị xứ không, thập bát giới không v.v...
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn. Vì vậy người xưa hay nhắc nhở chúng ta đừng nên chấp không, thế mà trong Bát Nhã nói cái gì cũng không hết. Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không sắc, thinh, hương, vị, xúc v.v... Trong kinh nói không mà các vị tiền bối bảo đừng chấp không. Vậy hai chữ không đó khác nhau chỗ nào? Đây là điều tôi muốn giảng trạch cho tất cả Tăng Ni, Phật tử nắm cho vững, để đường tu chúng ta không bị trở ngại lại còn có thể tiến nhanh hơn.

Muốn biết chữ Không trong kinh Bát Nhã hay cả hệ thống Bát Nhã, trước hết chúng ta phải nắm thật vững giáo lý nhân duyên. Người không nắm vững giáo lý nhân duyên thì không bao giờ hiểu được chữ Không trong kinh Bát Nhã. Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyên là chân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.

Trước hết chúng ta thử xem xét các pháp trên thế gian này có pháp nào không phải nhân duyên sanh hay không? Như chúng ta nhìn thấy ngôi chùa, vậy ngôi chùa từ đâu mà thành? Ai cũng biết đều do nhân công, thợ, thầy, gạch, cát, đá, xi măng v.v... hợp lại thành ngôi chùa. Chớ không bao giờ bỗng dưng nó tự thành, phải đủ nhân, đủ duyên hội hợp mới có. Nhân duyên thì không phải một thứ mà rất nhiều thứ tụ hợp lại thành sự vật. Cũng vậy, tất cả muôn sự muôn vật trên thế gian này có cái nào vượt ngoài vòng nhân duyên đâu.

Gần đây các nhà khoa học khi tìm hiểu đạo Phật, thấy rõ chủ trương các pháp do nhân duyên sinh của đạo Phật rất phù hợp với khoa học. Bởi vì khoa học là môn học phân tích sự vật, mà phân tích sự vật thì không vật nào tự nó có, tất cả đều do sự kết hợp nhiều thành phần mà có. Như vậy vật nào cũng không đơn độc một nhân một duyên có thể thành. Mà chúng rất phức tạp, do nhiều nhân nhiều duyên tụ lại. Chúng ta mới thấy cái nhìn của đức Phật hơn hai ngàn năm về trước rõ ràng, tường tận như thế nào.

Sự vật không tự có, không phải ngẫu nhiên có, cũng không do ai làm ra, chỉ khi nhân duyên tụ hội thì sự vật hiện có, thiếu duyên thì sự vật ly tán. Giáo lý Phật chỉ rõ cho chúng ta không còn mê lầm, nghĩ rằng sự vật do người nào hoặc ngẫu nhiên nó có. Từ cái nhà chúng ta nhìn tới cái bàn, cái ghế, vật nào không phải từ nhân duyên sinh? Cây cối trước mắt chúng ta cũng là nhân duyên sinh, rồi đến con người có phải từ nhân duyên sinh không? Nếu nói đơn giản là do tinh cha huyết mẹ kết tụ lại thành thân con người. Ngày nay với con mắt y học, người ta phân tích có bao nhiêu tỷ tế bào, phân ra từng loại rồi phối hợp lẫn nhau. Nhờ chúng phối hợp sinh hoạt, phát triển thì thân chúng ta còn sống, nếu chúng hư hoại thì thân này tan nát. Như vậy tất cả sự vật trên thế gian không có cái nào thoát ngoài lý nhân duyên.

Như xét cái đồng hồ, vật gì là chủ thể của nó? Chúng ta không thể nói cây kim là chủ thể, số là chủ thể. Bộ phận nào là chủ thể cũng không được, mà do đủ các bộ phận ráp lại thành cái đồng hồ. Như vậy duyên hợp thì nó có, nếu các bộ phận phân tán ra thì đồng hồ cũng không. Trước mắt chúng ta thấy có đồng hồ, nhưng thực thể cái đồng hồ có hay không? Chỉ là duyên hợp tạm có chớ không thật, vì nó không có chủ thể. Bởi không có chủ thể nên đủ duyên nó còn, thiếu duyên nó mất, không có gì cố định hết. Như vậy làm sao nói đồng hồ là thật được. Đã không thật thì cái gì là chủ thể của nó, chẳng qua duyên hợp tạm có, duyên hết hoàn không.

Trong kinh A Hàm đức Phật có dạy, người nào thấy được lý nhân duyên thì người đó thấy được pháp. Thấy được pháp tức là thấy đạo hay thấy Phật. Qua đó chúng ta thấy tầm quan trọng của lý nhân duyên như thế nào rồi. Cũng như vậy, con người do nhân duyên sinh nên không chủ thể, không cố định. Muôn vật trên thế gian này do nhân duyên sinh cũng không chủ thể, không cố định. Tuy không cố định, không chủ thể nhưng đồng hồ vẫn có, đủ duyên thì nó hiện tiền. Hiểu lý này rồi chúng ta mới bước qua bước thứ hai là chữ Không trong kinh Bát Nhã.

Chúng ta đừng lầm chữ Không trong kinh Bát Nhã là trống rỗng, không có gì hết. Không là đối với có. Nhưng chữ Không đây là ngay nơi sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được song chủ thể nó là không, không cố định. Như vậy dù mắt thấy, tay sờ mó được mà nói là Không, đó là không chủ thể, không cố định. Bát Nhã nói Không vì nó do nhân duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ Không trong kinh Bát Nhã còn gọi là tánh Không. Hệ thống Bát Nhã gọi đó là tự tánh Không. Tức là không có chủ thể, không tự tánh nhưng sự vật vẫn có giả tướng của nó khi đủ duyên tụ hội.

Con người chúng ta cũng do nhân duyên sinh, không có chủ thể, cố định. Vậy gọi ta được không? Chỉ là cái ta tạm bợ, còn mất theo duyên, không có giá trị thật. Thế mà lâu nay chúng ta cứ lầm nhận ta là thật, sự vật là thật. Nhà Phật gọi lầm nhận đó là vô minh, là si mê. Người học Phật phải có trí tuệ sáng suốt, thấy đúng như thật. Những gì Phật dạy chúng ta quán sát, thấu suốt mới đem ra hướng dẫn chỉ dạy cho người khác, chớ không phải học hiểu suông mà thấy được lẽ thật.

Chúng ta thử nghiệm lại thân mình có phải là tạm bợ hay không ? Nếu thân chắc chắn chân thật thì không bao giờ hoại. Vì do duyên hợp nên thiếu duyên thì nó sanh ra bệnh tật rồi đi đến bại hoại. Đó là lẽ thật, không còn gì nghi ngờ nữa. Vì vậy chữ Không của Bát Nhã là không có thực thể, chớ không phải không ngơ giữa có và không. Người ta cứ ngỡ cái bàn trước mắt là có, hư không trống rỗng là không. Đó là cái có không của người đời, còn Không của Bát Nhã là không tự tánh, không tự tánh tức là không thực thể. Vì vậy đức Phật nói thân này vô ngã. Vì vô ngã nên không chủ thể, bởi không chủ thể nên tùy duyên mà thành, tùy duyên mà hoại, không phải lúc nào cũng nguyên vẹn. Đó là ý nghĩa cụ thể của đạo Phật.

Chúng ta thấy rõ ý nghĩa của chữ Không rồi thì đối với sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được là thật có hay thật không? Nói thật có hay thật không đều sai cả vì nó tạm bợ, chỉ có giả tướng hiện tiền. Như vậy phải nói sao ? Nói các pháp không thật có, do duyên sinh, chỉ tạm có nên nhà Phật gọi như huyễn, như hóa. Đến đây tôi nhớ Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở đời Lý có bài kệ:

Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không.


Tạm dịch:

Có thì muôn sự có
Không thì tất cả không
Có không trăng đáy nước
Đừng mắc có không không.


Ngài Từ Đạo Hạnh diễn đạt hình ảnh cho chúng ta thấy rất linh động. Tất cả sự vật nếu nói có thì vật nào cũng có hết. Tại sao? Vì trên giả tướng mắt thấy, tay sờ mó được. Còn nếu nói không thì tất cả đều không hết, vì chúng là duyên hợp không thật. Không thật nên nói là không. Như vậy nói có và không giống như mặt trăng dưới đáy nước. Đêm rằm ta nhìn xuống hồ nước, thấy mặt trăng hiện dưới đáy nước. Mặt trăng ở đáy nước là thực có hay thực không? Nếu thực có sao đưa tay vớt lên không được. Nếu thực không sao mắt chúng ta thấy rõ ràng. Nên gọi là có mà chỉ là cái bóng, chớ không phải không ngơ. Nhưng là bóng thì nó không thật.

Muôn sự vật ở thế gian này cũng như bóng trăng đáy nước, nhìn thấy như có nhưng rốt cuộc không thực thể. Cho nên có cũng như không, chỉ vì duyên hợp tạm có. Người ta cứ ngỡ rằng những gì mắt thấy tai nghe là thực có, nhưng không ngờ chúng là duyên hợp. Đã là duyên hợp, chúng ta đừng lầm chấp nó thật thì sẽ không đau khổ. Đây là chỗ khó của người học Phật. Nếu thấy được lý này thì chúng ta sẽ thấy đạo Phật hay đáo để.

Chúng ta tu khó khăn vì chúng ta thấy cái gì cũng thật nên dễ nhiễm, dễ kẹt. Nhiễm kẹt thì sự tu không tiến, còn thấy các pháp không thật thì chúng ta không có gì để chấp, mà không chấp thì đường tu hết sức dễ dàng. Cho nên si mê là động cơ chủ yếu đưa chúng ta đến chỗ sai lầm. Từ sai lầm đó khiến chúng ta không thấy lẽ thật, rồi bị chìm đắm trong sinh tử, kiếp này kiếp nọ không cùng. Tuy nhiên những thứ đó cũng là tướng duyên hợp không thật. Nhưng không khéo tu chúng ta sẽ không ra khỏi nó, chỗ này rất là quan trọng.

Tôi nhấn mạnh lại chữ Không trong kinh Bát Nhã tức là tánh không của các pháp. Từ con người cho tới muôn vật đều giả có, không có thực thể. Đã là giả có mà chúng ta thấy thật thì đó là mê lầm, giả có mà nói không thì trái với lẽ thật. Vì vậy không thể khẳng định là không. Phải biết muôn sự muôn vật trước mắt chúng ta là tướng duyên hợp giả có.

Kinh Bát Nhã có câu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách". Nghĩa là, Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu vào trí tuệ Bát Nhã, Ngài xem thấy tất cả sự vật, tất cả pháp hay nói gọn là con người gồm năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không có thực thể, không cố định. Khi thấy như vậy Ngài liền qua hết thảy khổ nạn.

Ngày nay chúng ta tụng kinh Bát Nhã từ lúc mới vào chùa cho tới năm sáu mươi tuổi, biết bao nhiêu biến? Trăm ngàn biến mà khổ ách vẫn là khổ ách. Bởi vì tụng Bát Nhã thì tụng mà nhìn thấy thân năm uẩn thật. Nếu thấy thân năm uẩn duyên hợp hư dối thì có ai chửi thân năm uẩn này chúng ta thấy sao? Thân năm uẩn đã không thật thì lời chửi có thật đâu. Chẳng qua cũng là tạm bợ hư giả thôi. Mình hư giả, người hư giả, lời nói hư giả, có gì mà khổ, có gì mà phiền. Cho tới tất cả những thiệt thòi, khổ sở khác, nếu xét kỹ chúng có thật không? Cũng không thật. Như vậy có gì làm chúng ta khổ sở đâu? Chỉ cần dùng trí tuệ Bát Nhã soi thấu muôn sự vật, soi thấu lại bản thân mình đều là duyên hợp hư giả. Thấy được như vậy thì khổ ách nào cũng qua hết.

Như vậy chúng ta chỉ cần tụng một câu đó cũng hết khổ rồi, đâu cần phải tụng nhiều. Chủ yếu là biết vận dụng lời Phật dạy vào việc tu của mình. Lời Phật dạy rất chí lý nhưng chúng ta cứ đọc thuộc lòng. Đọc lại cho Phật nghe phải không? Chúng ta đọc kinh đúng ra là đọc cho mình nhớ và thực hành theo lời Phật dạy. Nhưng thường Phật tử cứ nghĩ rằng đọc như vậy có phước. Đọc hai lần phước nhiều hơn một chút. Do không biết lời Phật dạy để ứng dụng quán chiếu lại bản thân và mọi vật chung quanh, thấu triệt được lẽ thật của nó nên chúng ta cứ đọc cho Phật nghe hoài, còn mình thì không dính dáng gì hết. Phật nói chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách, chúng ta tụng hoài sao không qua được khổ ách? Bởi vì có chiếu kiến đâu! Chiếu kiến là soi sáng, mà chúng ta không chịu soi sáng thì làm sao thấu tỏ được. Đó là lầm lẫn của chúng ta.

Đức Phật dạy thân này được kết hợp từ năm uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, hành uẩn, tưởng uẩn, thức uẩn. Sắc uẩn là tứ đại đất nước gió lửa hợp lại. Thọ uẩn là những cảm giác của chúng ta như đang nóng có ngọn gió thổi qua nghe mát, cảm giác ấy gọi là thọ. Lưỡi chúng ta nếm một món ăn nghe ngọt, nghe đắng v.v... cảm giác ấy là thọ. Mắt chúng ta nhìn thấy người thấy vật, nhận ra đẹp xấu. Thân xúc chạm sanh thích hoặc chán v.v... Đó là cảm giác của thọ. Sáu căn tiếp xúc sáu trần có cảm giác khổ vui, không khổ không vui. Đó gọi là thọ. Tưởng uẩn là tâm mình tưởng tượng việc quá khứ vị lai. Hành là suy tư, những ý niệm nhẹ nhàng tế nhị. Có chỗ nói hành cũng là ý chí. ý chí vươn lên hay ý chí mạnh mẽ. Thức uẩn, phân biệt cái này tốt, cái kia xấu, cái này phải, cái kia quấy v.v...

Như vậy thân chúng ta có năm phần. Một phần thuộc về sắc chất, bốn phần kia thuộc về tinh thần. Có chỗ khác lại chia thân này do bốn thứ hợp lại là sắc. Sắc đó gồm bốn thứ đất nước gió lửa. Phần tinh thần bốn thứ: thọ, tưởng, hành, thức. Hai thứ cộng lại thành tám thứ đều nhau.

Tóm lại, thân này từ vật chất cho đến tinh thần đều do duyên hợp, không có gì cố định. Xưa Thiền sư Lương Giới, Tổ tông Tào Động, lúc mới cạo tóc vào chùa, đọc kinh Bát Nhã, Ngài thấy kinh nói: "Vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp", Ngài bạch với thầy:

- Con có mắt tai mũi lưỡi thân ý, nhưng sao trong kinh nói không có. Nghĩa này thế nào?

Vị thầy lắc đầu bảo Ngài đi tìm học chỗ khác, vì thầy giải nghĩa không nổi. Người học đạo thấy kinh nói sao là hay như vậy, không thắc mắc tìm hiểu nghĩa lý thì chúng ta không tiến bộ được. Ngài Lương Giới đọc kinh không hiểu liền sinh nghi nên Ngài phăng tìm cho ra. Sau này ngộ đạo Ngài mới thấy được lý chân thật của Phật dạy. Tất cả lời Phật dạy không có câu nào, lời nào là vô ý vô nghĩa, tất cả đều chỉ lẽ thật cho chúng ta. Nhưng vì trình độ thấp nên chúng ta không nắm vững thành ra cứ mê muội mãi.

Trong kinh Bát Nhã có đoạn: "Tướng không của các pháp không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt v.v..." cho tới không mắt tai mũi lưỡi thân ý, rồi không cả sắc thinh hương vị xúc pháp v.v... tất cả đều không. Như vậy tánh Không là thực thể không của các pháp. Trên phương diện không thực thể thì không có pháp gì có thật cả, nên nói không tất cả. Ngũ uẩn không, thập nhị xứ không, thập bát giới không v.v...

Tới đoạn sau "vô vô minh tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc". Nghĩa là tất cả pháp như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Năm uẩn là chỉ thân này, mười hai xứ tức là sáu căn và sáu trần, mười tám giới là căn trần thức cộng lại là mười tám. Vậy thì thân này, tâm thức này và trần cảnh này trên tánh Không đều không có, không thực thể. Về thế tục đế, những thứ này không thật có.

Còn như pháp Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Đế lẽ ra nhất định phải có. Vì Phật nói pháp Tứ Đế là chân lý, không thể sai chạy, pháp nhân duyên cũng chân lý, không thể sai chạy được. Nhưng tại sao kinh Bát Nhã nói cũng không luôn, như vậy chúng ta tu cái gì? Điểm này có nhiều người thắc mắc. Không khổ tập diệt đạo, không vô minh và không hết vô minh v.v... thì chúng ta tu làm sao đây?

Tôi thường hay nhắc, pháp của Phật dạy là phương thuốc trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có bệnh gì Phật có thứ thuốc ấy. Vậy nếu bệnh không thật thì thuốc có thật không? Thân ngũ uẩn này không thật tức là bệnh không thật. Thuốc là để trị bệnh, bệnh đã không thật thì thuốc làm gì có thật. Rõ ràng pháp của Phật dạy chỉ là phương tiện trị bệnh cho chúng sanh. Nếu chúng sanh hết bệnh thì thuốc cũng không dùng. Chúng sanh không thực thể thì thuốc cũng không thực thể.

Người đời thường nghĩ lời phàm tục không thật, còn lời Phật dạy là chân lý, là thật. Nhưng sự thật Phật chỉ tùy theo bệnh của chúng sanh mà dạy, giúp họ giải trừ được căn bệnh của mình, chớ ngôn ngữ ấy cũng không thật. Cho nên nói kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng hay chiếc bè đưa người qua sông v.v... Hiểu như vậy chúng ta mới không nghi. Tất cả pháp thế gian (tục đế) và pháp xuất thế gian (chân đế) đều không có thực thể, chỉ là giả tướng tạm bợ, đối bệnh cho thuốc thôi. Thấy rõ như vậy nên không chấp, sẽ đi tới chỗ cứu kính Niết Bàn, không còn mê lầm nữa.

Thấy được chữ Không của Bát Nhã rồi thì chúng ta dễ tu. Bởi vì chúng ta đang mắc bệnh chấp không. Nói tất cả pháp không có chủ thể liền chấp không ngơ. Nếu ai chấp không ngơ là lầm, bởi sự vật đang có giả tướng hiện tiền làm sao nói không được. Cho nên chúng ta phải hiểu rõ, Không là không chủ thể, không cố định, chớ lầm là không ngơ. Hiểu như vậy chúng ta sẽ không còn chấp nữa.

Tất cả sự vật đến với ta, ta không chấp thì dễ tu biết mấy. Mình có phải khổ sở để dẹp nóng giận, dẹp phiền não không? Sở dĩ chúng ta phiền não, chúng ta nóng giận là vì chúng ta chấp nó thật. Nếu biết rõ nó không thật, chỉ tạm bợ do duyên hợp thì có gì mà chấp. Do không chấp nên thảnh thơi tự tại đi giữa cuộc đời mà chúng ta không dính mắc gì cả.

Như vậy Phật độ chúng ta hết khổ, hay chúng ta dùng trí tuệ thấy muôn sự vật xảy đến với mình không thật, liền vượt qua các khổ. Nỗi khổ không ai cứu ta được mà do ta nhận ra chân tướng của nó không thật thì có gì làm ta phiền hà, khổ sở nữa! Thấy tường tận đạo lý thì không còn chấp. Nên nhớ chấp là gốc từ si mê, là nhân của đau khổ. Nhờ trí tuệ sáng không chấp nên đau khổ cũng không còn. Tụng một bài kinh Bát Nhã mà thấu triệt rồi thì chúng ta tự tại đi trong cuộc đời. Đó là điều chắc chắn vậy.

Nhưng sẽ có người nói thế này, Phật dạy các pháp hư giả tạm bợ như kinh Kim Cang nói: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh". Nếu mọi thứ đều tạm bợ huyễn hóa hết thì không cần làm gì nữa. Cuộc đời cứ thả trôi thì xã hội sẽ ra sao? Đây là nghi vấn của nhiều người hiện nay. Thật ra người tu Phật phải có đủ hai mặt: Một là trí tuệ tức trí Bát Nhã, hai là từ bi.

Chúng ta quán sát thấy rõ tánh các pháp là không, do duyên hợp tạm có, thấy tường tận như vậy là chúng ta có trí tuệ Bát Nhã. Nhưng giả sử cạnh ta có người đói khổ, chúng ta cũng bỏ mặc chỉ ngồi cười thôi, không làm gì hết, như vậy trở thành khô khan tiêu cực. Cho nên phải phát tâm từ bi. Phật dạy có trí tuệ mà không có từ bi là càn tuệ tức trí tuệ khô. Vì vậy trí tuệ phải có từ bi thì trí tuệ ấy mới tươi nhuần. Còn từ bi mà thiếu trí tuệ thì gọi là từ bi mù, nên chúng ta tu Phật phải có đủ từ bi và trí tuệ.

Bởi vì có trí tuệ rồi chẳng lẽ ngồi không, ai khổ mặc họ không cần biết đến ? Như vậy là ích kỷ, không có lợi ích gì cả. Cho nên người tu phải phát tâm từ bi, chúng sinh tuy hư giả nhưng lại không biết hư giả. Vì vậy họ khổ, chúng ta phải thương, phải cứu họ, làm cho họ hết khổ. Như vậy nhờ trí tuệ phá kiến chấp sai lầm, phá ngu muội tăm tối. Nhờ lòng từ bi thương người mê lầm, ta chỉ cho họ thấy được lẽ thật, không còn chấp, không còn đau khổ nữa. Đó mới gọi là làm tròn bổn phận người tu.

Vì vậy trí tuệ và từ bi phải nhịp nhàng theo nhau. Người tu Phật dù bậc thượng hay bậc hạ cũng phải đồng thời huân tập hai phương diện đó. Phải có đầy đủ trí tuệ tức trí Bát Nhã và từ bi để độ chúng sanh. Không vị Phật nào chỉ có trí tuệ mà thiếu từ bi. Hiểu như vậy chúng ta mới sẵn sàng lăn vào cuộc đời để cứu khổ, để đánh thức những người mê muội. Không nên nói thân giả, cảnh giả, khổ cũng không thật, có gì đâu lo. Thiên hạ đói cũng là chuyện giả thôi, có chi phải bận lòng rồi ngồi đó không làm gì hết.

Nên trong kinh Phật dạy phước và huệ, cả hai phải song hành như nhau, giống con chim có hai cánh. Chim muốn bay được phải đủ đôi cánh, nếu chích đi một cánh thì chim bay không được. Người tu cũng vậy, phải có trí tuệ để thấy tường tận lẽ thật của cuộc đời và có lòng từ bi để san sớt, chia xẻ những nỗi khổ của chúng sanh. Đó mới là người tu Phật chân chính.
Mong tất cả quý vị nghe suy ngẫm và ứng dụng giáo pháp Phật dạy vào đời sống tu tập của mình. Nếu ứng dụng được sẽ thấy giá trị cao siêu của Phật pháp, bằng ngược lại chỉ hiểu suông, không thực hành gì cả thì không bao giờ thấy được sự mầu nhiệm của đạo Phật. Và như vậy chúng ta không xứng đáng gọi là đệ tử của đức Phật. Tất cả hãy ghi nhớ và cố gắng nỗ lực thực hành để có niềm vui chân thật ngay trong hiện đời.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.14/9/2014.

Friday 12 September 2014

Nguyên Lý Căn Bản Của Đạo Phật.
"Khổ" là một chân lý thực-nghiệm. Không những chỉ sinh lão bệnh tử mới là khổ. Còn bao nhiêu cái khổ khác, lặt vặt hơn, nhưng phiền toái hơn, và dày vò con người thường xuyên hơn. "Nhận thức cái khổ" không phải chỉ là xác nhận cảm giác khổ thọ là thực hữu. Nhận thức cái khổ – dukkha – nghĩa là phải nhận chân một cách rõ rệt và sâu xa tính cách vô thường vô ngã chống đối nhau của vạn sự, vạn vật. Rộng rãi hơn, nhận thức cái khổ tức là biết mình sống đau khổ trong một thế giới khổ đau với một nghiệp báo không tốt đẹp.


Phần tinh-ba nhất của con người là tư-tưởng. Con người có thể tự-hào rằng mình hơn vạn-vật ở chỗ biết suy tưởng. "Người là một cây sậy biết suy tưởng", câu nói ấy vừa thú nhận sự yếu đuối của con người trước vũ trụ mà cũng lại vừa đề cao khả năng bất-diệt của con người trước vũ-trụ.

Đứng trước vạn tượng bao la, và nhìn lại bản thân mình, con người khát khao được hiểu biết. Hiểu biết để được thỏa mãn, và hiểu biết để sống cho đáng sống. Chính khuynh hướng muốn tìm hiểu ấy đã làm nẩy sinh ra triết học.

Nhân loại ngày nay đã hiểu biết tới đâu? Triết học đã vạch ra được con đường tiến của con người chưa? Đã giải quyết được những nỗi thắc mắc lớn lao của con người về cuộc sống, về vũ trụ và về bản thân của con người chưa?

Đó là những câu hỏi mà chính những con người có khả năng suy tưởng nhất cũng phải ngậm ngùi mỗi khi nghĩ đến. Người ta băn khoăn tự hỏi tri thức con người có đủ khả năng để đạt đến sự thực hay không. Nếu không thì con người còn suy tưởng làm chi. Thà rằng cứ ù ù cạc cạc mà sống trong cuộc đời, bởi vì sự suy tưởng vô vọng ở đây chỉ làm cho con người thêm đau khổ.

Nhưng con người không thể không suy tưởng. Sống là suy tưởng, và vì thế, dù triết học là một môn học không hư, viển vông, vô ích thì triết học cũng còn phải tồn tại mãi mãi; bởi vì khi con người còn suy tưởng đến những vấn đề căn bản của kiếp người thì triết học vẫn còn. Ba nghìn năm lịch sử của triết học hình như đã nói với ta như thế.

Vào buổi rạng đông của triết học, con người rất tin tưởng ở khả năng tri thức của mình. Nhưng cùng với những triết gia hoài nghi, lòng tin ấy mất dần, mất dần… Càng đi sâu vào sự suy tưởng, con người càng cảm thấy rõ ràng cái bất lực của tri thức nhân loại! Con người lại càng bi quan hơn nữa khi thấy bên cạnh cái tri thức yếu đuối và hèn kém ấy, còn có một tâm hồn nặng trĩu những ước vọng đen tối, xấu xa. Chính những mờ tối, cố chấp và chủ quan này đã dự phần vào việc che lấp phần khách quan đáng quý mà tri thức cần phải đầy đủ.

Với những vốn liếng nghèo nàn như vậy mà con người đã dám hy vọng có thể tìm ra chân lý. Đã thế lại còn muốn bay xa, rất xa trong cõi siêu hình. Càng xa càng hay. Cần gì đến thực nghiệm! Thái độ "duy lý" cũng đã đủ để đảm bảo rồi! Vướng vào thực nghiệm làm sao mà bay xa đuợc! Và như thế, con người tha hồ tự do kiến tạo những giấc mộng siêu hình.

Nói "những giấc mộng siêu hình" rất đúng, vì chính những kiến tạo duy lý của con người về siêu hình đều do những động lực rất chủ quan của con người sắp đặt: phần lý trí nhiều lầm lạc và thành kiến, phần tình cảm nhiều mờ ám, thiên lệch, cho nên giấc mộng của tôi không phải là giấc mộng của ngài, và loài người có đến muôn ngàn giấc mộng… Đã có ai công nhận của ai là đúng đâu.

Đức Phật lúc đương thời đã nhận thấy cái vô ích của những giấc mộng siêu hình. Ngài không muốn cho các đệ tử Ngài đắm chìm trong những suy tưởng siêu hình, những vọng tưởng sai lầm của tri thức và tình cảm chủ quan. Vấn đề trọng đại mà Ngài đặt ra cho đệ tử là phải tiêu diệt ngay phần mê mờ thiên lệch nằm trong tri thức và tình cảm của mỗi người, nghĩa là phải tu hành để tự giải thoát khỏi vô minh triền phược. Diệt trừ được phần mê vọng là đạt đến tất cả. Chưa diệt trừ được phần mê vọng thì dù có suy tưởng ngàn kiếp đến các vấn đề siêu hình cũng vẫn không đi đến một kết quả tốt đẹp nào. Phương pháp của đức Phật là phương pháp thực hiện, không phải là phương pháp suy tưởng. Đạo Phật là một đạo sống chứ không phải là môn học siêu hình.

Một hôm đức Phật cầm trong tay một nắm lá "sinsapa" và nói với các vị đệ tử xuất gia: "Các con nghĩ sao? Lá trong tay ta nhiều hơn hay là lá trong rừng này nhiều hơn?" – "Bạch đức Thế Tôn, những ngọn lá Ngài cầm trong tay thì ít mà lá trong rừng thì quá nhiều" – "Cũng như thế đó, này các con, những cái ta biết thì rất nhiều, nhưng những cái ta đem ra dạy các con thì rất ít. Tại sao ta không đem tất cả ra để dạy các con? Bởi vì những cái ấy không có lợi gì cho các con cả. Chúng không giúp gì cho sự giải-thoát cho nên ta không đem ra dạy. Ta dạy những gì? Ta dạy về sự khổ, nguyên nhân cái khổ, sự diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Những thứ ấy có ích lợi, vì chúng có thể đưa các con đến chỗ giải thoát" (Samyutta).

Ta thấy rõ ràng đạo Phật là một con đường và là một con đường duy nhất đưa đến chỗ diệt khổ. Đạo Phật chỉ là một lối sống, một lối thực hành, không phải là một thuyết lý vô ích, một "hý luận". Bởi vì đạo Phật nhận thấy cái cần thiết của sự diệt trừ mê vọng. Đức Phật nói: " Này các thầy tỳ kheo, đừng nghĩ vớ vẩn rằng thế giới này là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù cho thế giới này là hữu hạn hay vô hạn, dù cho nó hữu cùng hay vô cùng thì điều mà chúng ta phải nhận là hiện hữu ở đời này, là những khổ đau: sinh, lão, bệnh, tử" (Anguttara).

Vậy đạo Phật chủ trương dẹp bỏ tất cả các lý luận vọng tưởng, cấm trí óc phiêu lưu vào trong những thế giới suy tưởng siêu hình mà đạo Phật quyết chắc rằng chỉ là những vọng tưởng hư ngụy và vô ích. Đạo Phật kéo con người trở về với thực nghiệm. Thực nghiệm này là một thực nghiệm bao la rộng rãi. Đó là sự nhận thức cái "khổ" ở đời.

"Khổ" là một chân lý thực-nghiệm. Không những chỉ sinh lão bệnh tử mới là khổ. Còn bao nhiêu cái khổ khác, lặt vặt hơn, nhưng phiền toái hơn, và dày vò con người thường xuyên hơn. "Nhận thức cái khổ" không phải chỉ là xác nhận cảm giác khổ thọ là thực hữu. Nhận thức cái khổ – dukkha – nghĩa là phải nhận chân một cách rõ rệt và sâu xa tính cách vô thường vô ngã chống đối nhau của vạn sự, vạn vật. Rộng rãi hơn, nhận thức cái khổ tức là biết mình sống đau khổ trong một thế giới khổ đau với một nghiệp báo không tốt đẹp. Tất cả những giáo lý Phật dạy đều hướng về chủ đích làm cho con người có ý thức về cái khổ, và nhận chân được cái khổ theo định nghĩa rộng rãi như trên. Con người trước tiên phải thực nghiệm một cách sâu xa và rộng rãi cái "khổ" ấy, cái sự thực Vô Thường, Vô Ngã, Bất Tịnh và Mâu Thuẫn ấy. Có thực nghiệm như thế rồi, con người mới đặt vấn đề cần thiết: tìm nguyên do của sự khổ và phương pháp diệt khổ.

Kẻ nào chỉ có ý thức nông cạn về cái khổ thì không thể tìm đến nguyên nhân của cái khổ được. Khi con người đã chứng nghiệm một cách đầy đủ và sâu xa cái khổ Vô Thường, Vô Ngã, Bất Tịnh và Mâu Thuẫn, con người sẽ tìm đến nguyên nhân của cái khổ một cách dễ dàng. Đã có chân lý thứ nhất là Khổ đế, thì có chân lý thứ hai là Tập đế, nguyên nhân sự khổ. Đức Phật bảo rằng nguyên nhân sự khổ là mê vọng, ác nghiệp, là ái nhiễm, và con người cũng nhận thấy như thế. Nguyên nhân của sự khổ cũng như sự khổ, không phải là một kết quả do những suy tưởng siêu hình đem lại mà là một chân lý có thể thực nghiệm. Ai cũng có thể thực nghiệm chân lý ấy cả. Kinh nghiệm sống dạy cho con người chân lý ấy. Đức Phật muốn cho con người có ý thức rõ rệt về chân lý ấy. Giáo điển đạo Phật đã thuyết minh rõ ràng về chân lý ấy.

Vậy Khổ-đế và Tập-đế là những điều thực nghiệm rộng rãi và đầy đủ dùng làm nền tảng cho phương pháp đạo Phật. Đứng trước những chân lý thực nghiệm ấy, con người cố nhiên phải nhận thấy con đường của mình: giải thoát diệt khổ.

Nếu nguyên nhân của đau khổ là dục vọng thì diệt-trừ dục-vọng tức là diệt trừ đau khổ. Đó là một điều quá giản lược mà không ai không thấy. Cuộc đời là khổ. Và nguyên nhân của cái khổ ấy là dục vọng. Tiêu diệt được dục vọng tức là tiêu diệt được cuộc đời đau khổ. Vậy, theo đạo Phật, cuộc đời khổ đau, con người phải tiêu diệt cuộc đời khổ đau ấy để tiến đến Niết-bàn.

Đừng vội la lên rằng: như thế thì đạo Phật là quá ư tiêu cực, là chủ trương đừng sống, là chủ trương xa lánh cuộc đời, là chủ trương biến tất cả thành hư vô. Dục vọng là nguyên nhân của sự khổ đau, là gốc của sinh, lão, bệnh, tử và ngàn muôn khổ thọ khác. Nhưng con người không phải chỉ có dục vọng mà thôi. Con người còn có những gì thanh thoát cao siêu hơn dục vọng, như lòng từ bi, như trí tuệ… Vậy tiêu diệt dục vọng chỉ là tiêu diệt cuộc đời khổ đau; nói một cách khác hơn, là tiêu diệt phần khổ đau của cuộc đời. Phần dục vọng bị tiêu diệt, nhưng còn phần tinh ba cao khiết sẽ ra sao? Phần tinh ba cao khiết này, khi dục vọng tiêu diệt, cố nhiên sẽ được thực hiện toàn vẹn. Không lẽ sự thực hiện toàn vẹn của phần này lại đưa đến một kết quả hư vô?

Vậy khi dục vọng tiêu diệt, phần xấu xa của cuộc đời (vô thường – khổ đau – vô ngã – bất tịnh) bị tiêu diệt, nhưng phần tốt đẹp của cuộc đời (thường – lạc – ngã – tịnh) phải được thực hiện toàn vẹn, vì ở con người, phần tinh ba cao khiết đã được thực hiện toàn vẹn. Vậy Niết bàn không phải là hư vô, mà là sự thực hiện toàn vẹn của những gì cao khiết nhất, thanh tịnh và nhiệm mầu nhất.

Sống trong cuộc đời vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ đau với bao nhiêu thăng trầm sinh tử, mà không thấy có vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ đau với bao nhiêu thăng trầm sinh tử ấy: đó là Niết-bàn.

Đạt đến chỗ diệt trừ dục vọng, con người được giải thoát, hoàn toàn tự do, không còn bị nô lệ cho một thứ gì nữa. Vấn đề Giải Thoát chỉ là vấn đề thay đổi nhận thức. Dục vọng tiêu diệt, bi trí thực hiện, tức thì nhận thức biến đổi. Vô thường, khổ đau, vô ngã, bất tịnh, trước nhận thức giải thoát, biến thành Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Sinh tử triền phược là ở đấy. Niết bàn giải thoát cũng ở đấy. Và Niết bàn không rời sinh tử, "Niết bàn, sinh tử thị không hoa".

Có mặt xấu của cuộc đời là sinh tử, thì cũng có mặt đẹp của cuộc đời là Niết bàn. Đó là chân lý thứ ba.
Nhưng để diệt trừ dục vọng, đạt tới Niết bàn, con người cần phải có một đường lối, một phương pháp. Đạo Phật là đường lối ấy, là phương pháp ấy.

Đường lối diệt dục cần phải rất rõ ràng, và phải khởi đầu từ bờ Mê, nghĩa là phải để cho con người khổ đau có thể đạt được những bước đầu tiên, khó khăn và ngượng ngập. Pháp môn tuy nhiều vô lượng, song được bao hàm trong mấy điều giản lược thiết yếu: Tam học và Bát chính đạo.

Tam-học: giới, định, tuệ. Chủ động của những nghiệp quả xấu xa, là các hành vi, ngôn ngữ và ý nghĩ mê vọng. Các "vọng nghiệp" này lại còn giúp sức cho dục vọng phát triển. Vậy công việc trước tiên là phải đình chỉ chúng lại. "Giới" chính là sự đình chỉ ấy. Không làm, không nói và không nghĩ những nghiệp nhân mê vọng tức là không chịu tuân theo sự sai sử của dục vọng. Đó là công tác cách mạng đầu tiên. Có thành công trong bước đầu kháng cự và bất phục tùng này, con người mới hy vọng tiến đến giai đoạn tiêu diệt dục vọng.

Trì giới tức là không chịu rót thêm dầu trong ngọn đèn dục vọng. Tuy thế, ngọn đèn vẫn cháy mạnh. Cho nên, con người phải dùng thêm những biện pháp tích cực để làm yếu dần sức cháy kia và cuối cùng, tiêu diệt được ngọn lửa đèn.

Do công năng trì giới, ý chí càng lúc càng mạnh. Hành giả sẽ thực hành phép tập trung tư tưởng, dùng lực lượng thiền định để cắt xén dần những rễ dây chằng chịt của dục vọng và trải qua nhiều công phu, có thể lay chuyển và xô ngã được cội rễ của nó.

Dục vọng càng bị tiêu diệt, trí tuệ càng thêm tăng trưởng. Trí tuệ càng tăng trưởng thì sức phá trừ dục vọng càng thêm mãnh liệt. Cứ thế hành giả tiến dần đến chỗ tiêu diệt hoàn toàn những mầm mống vi tế nhất của cội nguồn đau khổ. "Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ" là câu nói tóm tắt của tam-học vậy.

Nhưng công phu tam học cần được thành lập trên những kiến thức chân chính - chính kiến (vue juste). Nghĩa là cần thấu hiểu và chứng nghiệm triệt để bốn sự thực căn bản (gọi là Tứ Đế) để có thể tránh khỏi những nhận thức sai lầm, những tà kiến trái chân lý. Phải theo lời Phật dạy để biết xử dụng pháp tập trung tư tưởng và pháp thiền quán đúng theo chính pháp, chính định và chính tư duy. Chỉ tưởng niệm những điều đúng chánh pháp, chánh niệm. Phải siêng năng theo con đường chánh – chánh tinh tấn. Phải có một phương tiện sinh tồn chân chánh – chánh mạng. Phải hành động và nói năng đúng theo chánh pháp – chánh nghiệp và chánh ngữ. Đó là bát chính đạo.

Con đường tuy gay go nhưng là con đường duy nhất. Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát, ngoài ra không hề có nhằm mục đích giải quyết những thắc mắc siêu hình. Người nào nhìn đạo Phật như một khoa học siêu hình chính người đó đã không hiểu đạo Phật.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.13/9/2014.
Từ Bi.
Từ-bi không phải là một lý thuyết suông; không phải là một lý tưởng tốt đẹp để cho người đời nhìn ngắm. Nó không phải là một sức mạnh thụ động, mà là cả một sức mạnh hoạt động không ngừng. Từ-bi là nguồn gốc của muôn hạnh lành; những hành động tốt đẹp đều do lòng Từ-bi mà ra cả. Trước hết, vì từ-bi nên ta bố thí, do bố thí mà dứt được lòng tham lam, bỏn xẻn.
Định nghĩa

Từ bi là do hai chữ" "Từ" và "Bi" ghép chung lại. Theo trong kinh Phật, "Từ" la lòng thương yêu, thường đem vui cho tất cả chúng sanh (Từ năng dữ nhất thế chúng sanh chi lạc)."Bi" là lòng thương xót, thương dứt trừ đau khổ cho hết thảy chúng sanh (Bi năng bạt nhứt thế chúng sanh chi khổ). Trong "Tứ vô lượng tâm" (bốn món tâm rộng lớn không lường được), thì Từ-bi đứng đầu. Hai chữ Từ –bi sắp theo văn phạm Trung hoa, thì ý nghĩa không nghịch, nhưng theo tiếng Việt chúng ta thì nên để Bi trước và Từ sau, vì "Bi" là nhân mà "Từ" là quả, cũng như "xả là nhân mà hỷ là quả". Tại sao thế?-Vì nếu có lòng thương yêu, muốn ban vui cho chúng sanh, trong khi họ đang bị đau khổ dày vò, thì cái vui ấy chỉ là cái vui gắng gượng. Vậy muốn cho họ hưởng sự vui vẻ đầy đủ, trước phải trừ giùm đau khổ cho họ, rồi cho vui. Như thế, cái vui mới được hòan tòan.

Tánh chất của Từ Bi

Từ-bi rất bao la và bình đẳng


Trong đời hay trong các học thuyết, tôn giáo khác cũng thường nói đến tình thương yêu, lòn gbác ái. Nhưng những danh từ nầy chứa đựng một nội dung hẹp hòi, có khi đó chỉ là tình yêu thương vợ con, gia đình quyến thuộc, bạn bè; rộng hơn thì ra đến quốc gia, chủng tộc là nhiều. Chũ Từ-bi của đạo Phật không có phạm vi, nó bao la, vô tận. Nó lan từ gia đình, xã hội, chủng tộc, nhân loại ra đến toàn thể chúng sanh, cây cỏ. Nó không có thân sơ, bạn thù, xa gần, mạnh yếu; nó lan bằng như nước, chỗ nào thấp thì nước chảy đến trước, nhận được nhiều, chổ nào cao thì chảy đến sau, nhận ít, nhưng bao giờ cũng đồng đều ở trên mặt. Kẻ nào đau khổ nhiều thì được cứu nhiều, kẻ nào đau khổ ít thì cứu ít, nhưng mục đích bao giờ cũng làm cho mọi người, mọi vật đều thoát khổ và yên vui bằng nhau. Lòng Từ-bi rất bình đẳng, không có cao hạ, gần xa, nặng nhẹ. Nhưng vì chúng sanh có loại khổ nhiều, có loại khổ ít, nhân loại cũng có kẻ cực nhiều, có kẻ cực ít, cho nên lòng từ-bi cũng tùy theo trường hợp, tùy theo căn bịnh, mà gia giảm ít nhiều để san bằng biển khổ. Như thế, ta nhận thấy rằng tinh thần từ-bi bao giờ cũng bình đẳng, nhưng trong thực hành thì có sai khác tùy trường hợp, có nơi cần trút nhiều tình thương, có nơi vừa phải, có nơi ít. Và đó, mới thật là bình đẳng.

Từ-bi rất sáng suốt.


Từ –bi không những bao la, bình đẳng, mà còn sáng suốt vô cùng. Lòng thương ở ngoài đời có nhiều khi rất mù quáng. Khi thương thì trái ấy cũng tròn, khi ghét thì bồ hòn cũng méo. Thương thì xấu cũng thành tốt, ghét thì tốt cũng hóa xấu. Nhất là tình yêu, lại càng mù quáng hơn. Trong báo chí, không ngày nào là không có năm, ba vụ chém nhau, giết chết nhau vì tình yêu. Tình yêu và thù oán đi song song nhau. "Không yêu được thì ghét", một nhà tâm lý Pháp đã nói rất đúng như thế. Tình yêu thương giữa đời sở dĩ mù quáng như thế, là vì nó xuất phát từ thất tình lục dục, là vì nó dựa lên tình thương mình, lên cái ngã.

Trí tuệ của Phật đã đánh tan cái ngã, cho nên Từ-bi của Phật không dựa lên cái ngã hẹp hòi. Do đó, từ-bi rất sáng suốt. Từ-bi nhờ trí-tuệ soi sáng, nhận thấy được rằng toàn thể mình, mình là toàn thể; chúng sanh mặc dù chia ra làm sáu loại: Thiên, Nhân, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, nhưng tựu trung vẫn đồng một bản thể như nhau như chất ướt mặc dù khi đông thành nước đá, khi tan thành nước, khi biến thành hơi, khi tụ thành mây, khi hóa thành mưa, cũng có chung một tánh: Tánh ướt. Chúng sanh từ vô thi, quay lộn trong sáu đường, tiếp nối muôn triệu kiếp, đã từng làm cha mẹ anh chị em, thân bằng quyến thuộc của nhau, cho nên phải thương yêu nhau.

Nói một cách tổng quát thì Từ-bi là tình thương phát xuất từ sự sống, trở lại thương sự sống và quyết tâm trừ dứt đau khổ đã bám víu vào sự sống, trong muôn hình vạn trạng. Sự sống đã bao la bình đẳng, sáng suốt, thì từ-bi cũng bao la, bình đẳng, sáng suốt.

Công năng của Từ-bi

Từ-bi không phải là một lý thuyết suông; không phải là một lý tưởng tốt đẹp để cho người đời nhìn ngắm. Nó không phải là một sức mạnh thụ động, mà là cả một sức mạnh hoạt động không ngừng. Từ-bi là nguồn gốc của muôn hạnh lành; những hành động tốt đẹp đều do lòng Từ-bi mà ra cả. Trước hết, vì từ-bi nên ta bố thí, do bố thí mà dứt được lòng tham lam, bỏn xẻn. Vì từ-bi nên ta trì giới, do trì giới mà ta không sát sanh hại vật. Vì từ-bi nên ta nhẫn nhục, nhờ nhẫn nhục mà ta dập tắt được tánh nóng giận, thù hằn. Vì từ-bi nên ta tinh tấn, do tinh tấn mà ta trừ được lười biếng. Vì từ-bi nên ta chuyên tâm định tĩnh, do định tĩnh mà ta hết bối rối loạn động. Vì từ-bi nên ta luyện trí-tuệ, do luyện trí tuệ mà mê lầm tiêu tan.

Nhờ từ-bi mà muôn vật đỡ bị sát hại, đau đớn; nhờ từ-bi mà nhân loại đỡ chiến tranh; nhờ từ-bi mà loài người bớt thù oán; nhờ từ-bi mà người nghèo bớt đói lạnh, người giàu bớt tham lam; nhờ từ-bi mà người ngu được khai ngộ, người độc ác trở lại hiền lành, người sợ hãi trở lại yên tâm.

Tóm lại, nhờ từ-bi mà cõi Ta Bà nầy bớt tiếng than khóc, bể sâu vơi nước mắt, nụ cười nở lại trên môi.

Gương Tư-bi của Đức Bổn Sư Thích Ca

Để có một bằng chứng cụ thể về lòng từ-bi và công dụng của nó, chúng ta hãy hướng nhìn lại đời sống của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài đã vì lòng từ-bi, muốn cứu độ chúng sanh đau khổ nên Ngài đa thành Phật. Từ khi lên bảy, trong cái tuổi mà người ta thường bảo là tuổi không biết tội nghiệp (Cet âge sans pitié), chính lúc ấy Đức Thích Ca đã rơi lụy xuống đường cày, khi Ngài nhận thấy cảnh giành giựt giết hại nhau giữa sanh vật để bảo tồn sự sống riêng của chúng. Càng lớn lên, lòng thương của Ngài càng mở rộng. Ngài không thể thấy một con chim bị bắn mà cứu, một con cừu bị què chân mà không bồng nó lên. Vì lòng thương rộng lớn, Ngài lìa bỏ tình thương nhỏ hẹp của gia đình, lìa bỏ ngôi vàng lộng lẫy, lìa bỏ danh vọng cao sang; chính vì lòng từ-bi mà Ngài đã nằm sương gối tuyết, không quản gian nguy trong lúc đi tìm đạo cứu đời. Chính vì lòng tử-bi mà 49 năm Ngài không ngừng thuyết pháp một ngày. Chính vì lòng từ-bi mà Ngài đặt gót chân trên khắp cõi AᮠĐộ rộng lớn. Chính vì lòng từ-bi mà Ngài đã quên già yếu, thuyết pháp độ sinh cho đến phút cuối cùng trước khi lìa thế. Chính vì lòng từ-bi mà Ngài đã phát đại nguyện:"Ta nguyện đem thân ta chịu hết cả hằng hà sa số khổ đau của chúng sanh" hay:"Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật thì ta quyết chưa thành Phật". Chính vì lòng từ-bi mà Ngài đã tuyên bố những câu nói rất hùng dũng:"Nếu ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục?" hay những câu nói đầu khoang hòa, độ lượng, đã và sẽ là khuôn vàng thước ngọc cho muôn đời:"Với người dữ, ta nên ở lành, với người câu nệ, ta không nên câu nệ, với người gian tham, ta chớ nên gian tham. Hãy lấy từ-bi đáp lại nộ khí, lấy thành thực đáp lại điêu ngoa, lấy lành đáp dữ".

Người Phật tử phải nuôi tánh từ-bi như thế nào trong đời sống hàng ngày

Tánh từ-bi đã nằm sẵn trong tâm mỗi chúng ta. Chúng ta không cần cần phải cầu xin, mua chuộc nó ở một vị chúa tể nào, thần linh nào cả. Hạt giống ấy đã nằm sẵn trong tâm hồn chúng ta. Nhưng nó đang bị phủ lấp dưới bao lớp sân hận, tham lam, ích kỷ, nên không thể đâm chồi nẩy mộng, trồi đầu lên được. Vậy, công việc đầu tiên của người dưỡng tánh từ-bi là phải phanh gở lần những lớp chương ngại, để cho mầm từ-bi nẩy lên. Khi nó đã nhô lên khỏi mặt đất, chúng ta phải tìm mọi nhân duyên, mọi cơ hội thuận tiện cho nó chóng đâm chồi nẩy lá. Công việc không phải chỉ trong năm ba ngày, một tháng, một năm, mà suốt cả đời. Cũng không phải chỉ săn sóc nó trong những cơ hội thuận tiện lớn lao, mà bỏ mặc nó trong những hành vi, cử chỉ nhỏ nhặt tầm thường hằng ngày. Có nhiều người có thể làm được những việc từ thiện lớn lao, như mở nhà thương, phát chẩn bần, tốn từng chục vạn bạc, thế mà khi thấy một người đau, một người đói hay lạnh rênh xiết trước mặt mình, lại đành đoạn làm ngơ. Có người có thể nhảy xuống sông cứu người chết đuối, bỏ bạc ngàn mua chim, mua cá phóng sinh, thế mà vẫn điềm nhiên ngồi nhìn một con kiến vô tội sắp chết chìm trong ly nước, hay một con chuồn chuồn sắp bị đứa nhỏ của mình ngứt cánh ngứt đuôi. Chúng ta hãy coi chừng, hãy tìm hiểu lý do của tâm trạng hành động nói trên. Có khi đó là do quan niệm sai lầm tưởng rằng làm những việc vĩ đại, lớn lao mới là từ thiện, mới là từ bi, còn những việc nhỏ nhặt thì ai làm cũng được, có làm hay không làm cũng không có hậu quả gì; có khi đó là do tánh háo thắng, ham danh chuộng lợi mà làm. Nếu thế thì không phải là dưỡng tánh từ bi, mà trái lại là vùi dập nó sâu thêm dưới lớp si mê, dục vọng của lònh mình.

Muốn dưỡng tánh từ bi, ta phải làm tất cả việc lành, tránh các việc dữ, dù to dù nhỏ, dù trước mặt muôn người, hay chỉ một mình ta, dù được khen hay bị chê, dù dể hay khó.

Muốn dưỡng tánh từ bi ta phải tiếp xúc, gần gũi với những cảnh khổ đau của đời. Những người ở luôn trong những dinh thự nguy nga, khó biết được cái cảnh nửa đêm chồn con dưới túp lều tranh khi mưa dột, cái cảnh trốn nắng dưới mái nhà tôn khi nửa trưa, Những người luôn luôn ngồi trên xe ngựa, khó nghe được những tiếng rên khóc bên lề đường, trong xó chợ. Những người ăn mặc ấm áp, sang trọng khó cảm nhận được cái lạnh buốt đến tận xương tủy của những kẻ rách rưới trần truồng. Những kẻ luôn luôn ngồi trước bàn tiệc cao lương, mỹ vị, khi nghe được những tiếng rú, tiếnt thét hãi hùng, những cái dãy dụa đớn đau của những gia súc bị làm thịt dưới nhà bếp. Cho nên, muốn trao dồi tình thương, phải gần gủi với cảnh khổ. Thái tử Sĩ-đạt-ta ở trong cung vua, mà cứ nằn nặc xin Phụ Vương ra xem ngoài bốn cửa thành là vì thế. Có thấy, có cảm, có chia xẻ cái khổ cho nhau, mới thương nhau. Có thương nhau mới tìm cách cứu khổ cho nhau. Có cứu khổ được khổ cho nhau thì tình thương mới thêm phấn khởi và phát triển. Tình thương càng phấn khởi và phát triển thì ta còn cám ơn những kẻ đau khổ đã tạo nhân duyên cho tình thương của ta mở rộng và hoạt động mạnh mẽ. Chính những kẻ đau khổ là phước điền nuôi dưỡng lòng từ bi phát sinh và lớn mạnh. Đất hoạt động, đất sống của từ bi là cảnh khổ. Ly cảnh khổ, cây từ bi sẽ mất sanh lực và không thề đâm hoa kết trái được. Cảnh khổ không phải chỉ có trong loài người, mà chung cho cả sinh vật. Cho nên người dưỡng tánh từ bi không phải chỉ cứu giúp loài người đỡ khổ mà còn biết thương yêu gia súc, xem chúng như những người giúp việc trong nhà, tránh làm đau khổ chúng một cách vô ích. Hãy nghĩ rằng chúng cũng có tình mẫu tử, có dạ trung thành, biết đau khổ, biết lo sợ. Chúng ta không nên hất hủi, hành hạ chúng nó. Chúng ta cũng không nên tìm thú vui trong những cuộc săn bắn hay câu cá. Những ai có thể vui thích được trước cảnh tượng đau đớn hãi hùng của những con thú, con chim, con cá, bị bắn giết, sẽ quen dần với những cảnh giết chóc, tàn bạo giữa người và người.

Cho đến cây cỏ, người dưỡng tánh từ bi cũng không nên tàn phá một cách vô ích. Nên nhớ rằng nó cũng có sự sống, và đã có sự sống tất nhiên muốn bảo tồn sự sống. Những kẻ bứng cây sống, trồng cây chết, ngứt hoa, bẻ lá, phá cành mà không có một mục đích gì cả chỉ để thỏa mãn cái tánh ưa thích tàn phá, những người ấy cũng đã làm tổn hại lòng từ bi của mình nhiều lắm. Lòng thương yêu cây cỏ, giúp cho ta nhận thấy được lẽ huyền vi của sự sống, thông cảm với cái chung của muôn vật và trực nhận được cái bản thể của vũ trụ.

Tóm lại, làm được tất cả các việc trên, từ nhỏ đến lớn, từ ddễ đến khó, không bao giờ thối chuyển ngã lòng; mở rộng mãi lòng từ bi cho nó bao trùm được cả pháp giới: Như thế là dưỡng tánh từ bi của Phật, mà mỗi chúng ta đều có sẵn ở trạng thái tiềm tàng trong tâm chúng ta.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY=13/9/2014.
An ủi lớn nhất của loài người là bố thí.
Tại sao an ủi lớn nhất của đời người là bố thí? Vì người nghèo đang thiếu thốn, khó khăn được sự giúp đỡ sẽ có thể vượt qua cơn hoạn nạn. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia, chính là gieo những hạt giống thiện lành, giống như người gửi tiền ngân hàng tuy hiện tại như không có tiền nhưng khi cần xài thì rút ra. Như vậy, khi chúng ta làm những việc thiện lành như bố thí tiền bạc, tài sản, chia sẻ những ưu tư, những khổ đau của người khác là chúng ta đang tu phước.
Bố thí theo nghĩa sâu xa là buông xả mọi dính mắc về vật chất lẫn tinh thần. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia cho người khi cần thiết nhưng vẫn có sự tính toán. Khi chúng ta cho đi một vật gì là biết chắc mình sẽ nhận lại được tương đương hoặc nhiều hơn thế nữa, như vậy trong đó có sự cân nhắc lợi-hại. Chúng ta cho đi một vật gì mục đích là để cầu phước báo hiện tại và mai sau, hoặc vì muốn đáp lại lòng tốt của người khác. Như vậy, ý nghĩa cho ở đây là để trao đổi hai chiều. Trong thế gian này, người giàu sang phú quý, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại không phải bỗng dưng mà có. Đó là kết quả việc tu nhân tích đức của họ trong nhiều đời trước. Chính vì vậy, trong cuộc sống này không có việc gì là ngẫu nhiên, đương nhiên khi không hay tự nhiên mà thành.

Muốn được giàu sang quyền quý, sung túc đầy đủ trong tương lai thì hiện tại ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Người Phật tử chân chính lúc nào cũng phải tin sâu nhân quả, tin mình làm lành được hưởng phước. Vậy muốn được giàu sang, nhiều của cải mà hiện thời ta không biết làm phước thì e rằng không thể có được. Đạo Phật có mặt trong cuộc đời là vì lợi ích chúng sinh, muốn giúp cho mọi người chuyển hoá kiếp nghèo khó thì ta phải biết bố thí, cúng dường. Phật dạy chúng ta phải biết xả bớt lòng tham lam, ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình để giúp đỡ, sẻ chia cho người khác, không nên sống trong vô cảm ai khổ đau mặc kệ. Đạo Phật chủ trương sống hòa mình cùng nhân loại với quan niệm ai cũng là người thân, người thương nên mỗi người đều phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Đạo Phật thấy rõ cuộc sống của muôn loài là phải nương tựa vào nhau, không một loài nào có thể tách rời đời sống xã hội mà tồn tại trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật đã tu tập thành bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy rõ mọi sai biệt và bất đồng giữa con người và muôn loài giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người giàu sang, sung sướng, của cải vật chất đầy đủ; người nghèo hèn, khốn khổ, đói rách, thiếu thốn, lang thang; kẻ sang - người hèn, kẻ xấu - người đẹp, kẻ ngu - người trí, kẻ chết yểu - người sống thọ, người an vui hạnh phúc - kẻ bất hạnh khổ đau… Phật dạy: Người đủ ăn đủ mặc là người có phước đức nên ít lo, nhờ vậy mà dễ tu. Vậy thế nào là người có phước đức? Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định, phương tiện vật chất đầy đủ, có nhà cửa, tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc ấm; lại sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết cung kính lễ phép với người trên, thương yêu đùm bọc người dưới, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành trong tình thương yêu nhân loại vì tình người trong cuộc sống bằng trái tim hiểu biết.

Ngay nơi hiện tại chúng ta không làm phước mà muốn mai sau được phước thì không thể được, cũng như trước kia mình chưa từng làm phước nên bây giờ phải chịu kiếp nghèo khổ. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước. Hiểu được điều này, mỗi người chúng ta cần phải cố gắng gieo trồng phước đức để cuộc sống ngày thêm hoàn thiện hơn. Một ngày chúng ta sống trên đời là một ngày ta phải sống có ích cho mình và người mà không làm tổn hại cho ai. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, trong gia đình thường hay gây gỗ, bất hòa, xung đột lẫn nhau là vì thiếu phước đức. Vậy thế nào là phước? Phước là những hành động, lời nói, ý nghĩ đem đến an vui, hạnh phúc cho mọi người trong hiện tại và mai sau. Người làm phước là người biết làm những điều thiện lành tốt đẹp, luôn giúp mọi người khi gặp khó khăn nên ai cũng ưa thích gần gũi, quý mến, tôn trọng. Chính nhờ sự gần gũi đó chúng ta dễ dàng thông cảm, tha thứ cho nhau, sẵn sàng dấn thân phục vụ, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha.

Phước giúp chúng ta chuyển hoá được những nghiệp xấu ác có tính cách làm tổn hại người và vật của nhiều kiếp, phước có công năng giúp ta sáng suốt để giảm bớt việc làm sai trái trong cuộc sống. Có những việc chúng ta tưởng chừng như không thể nào cứu vãn nổi, vậy mà nhờ có phước rồi ta cũng vượt qua hết tất cả. Trong sáu hạnh Ba La Mật gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ thì bố thí là hạnh đầu tiên để giúp chúng ta từng bước thăng tiến trên con đường Phật đạo. Con đường tu tập của quý Phật tử không chỉ giới hạn vào việc tu phước, việc làm lành tránh ác để kiếp sau khá hơn kiếp trước, vì như thế vẫn còn trôi lăn trong vòng sinh tử của thế giới tương đối, đó chưa phải là mục đích chính của đạo Phật.

Chúng ta thử đặt vấn đề nếu trong hiện tại chúng ta chỉ lo tu phước mà không tu tuệ, do nhân tu phước ở kiếp này mà đời sau có nhiều của cải, quyền cao chức trọng, kẻ hầu người hạ, giàu sang sung sướng. Do được hưởng phước báo đó mà con người ta dễ dàng buông lung, sa đoạ trong dục lạc. Khi ấy thì dù có bậc thiện tri thức khuyên bảo cũng khó làm cho họ nghe theo vì họ đang trong cơn say sưa, mê đắm với dục vọng. Chính vì vậy mà đức Phật thường khuyên nhủ chúng ta "phước huệ song tu" để thành tựu đạo pháp. Nếu chúng ta giàu sang sung sướng mà không có nhận thức sáng suốt, không giữ gìn giới hạnh trang nghiêm thì trong tương lai phước hết hoạ đến sẽ gặt quả báo xấu tuỳ theo nghiệp đã tạo.

Việc gieo trồng phước đức rất quan trọng, trong đó có hạnh pháp thí gồm có truyền giảng chánh pháp cho người nghe, hay trợ duyên cho việc chuyển lăn bánh xe pháp, làm cho Phật pháp ngày càng lan rộng. Làm phước bằng cách ấn tống kinh sách, phát hành băng đĩa Phật pháp, tài trợ cho quý Tăng Ni sinh đi học, hay cúng dường cho những khoá tu học tại các chùa, gieo nhân duyên nghe Phật pháp giúp mọi người tin sâu nhân quả, hiểu biết được nguyên lý sống của xã hội là công đức cao nhất trong các hàng bố thí. Cho người miếng ăn xong rồi hết, đôi khi khiến họ thêm ỷ lại, cho pháp thí thì mau chuyển hoá được nghiệp tập xấu ác.

Ngày xưa, khi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa hoằng pháp, Ngài đã đến gặp vua Lương Võ Ðế. Trong lúc tìm hiểu, trao đổi Phật pháp, nhà vua hỏi: "Trẫm một đời cất chùa, độ Tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, như vậy có được công đức chăng?" Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời rằng không có công đức gì cả. Nhà vua như bị tát gáo nước lạnh vào mặt, bởi vì Ngài nghĩ những việc đó là công đức tối hậu. Có người nói rằng vua Lương Võ Ðế không đích thân ra công thực hiện những việc đó mà chỉ sai người khác làm nên không có công đức gì cả. Sau này có người đem sự việc đó thưa hỏi Lục Tổ Huệ Năng và được Lục Tổ chỉ dạy như sau: "Quả thực là không có công đức gì cả. Vua Lương Võ Ðế vì lầm chấp sự làm phước là viên mãn mà không dùng trí tuệ để buông xả phiền não tham-sân-si vì còn thấy mình giúp. Cất chùa, độ Tăng chúng tu hành rất đông, thiết trai cúng dường, bố thí, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, tất cả chỉ là những việc làm bên ngoài xã hội bằng tình người trong cuộc sống có thể giúp ích cho nhiều người."

Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ nên hỏi tiếp: "Tại sao lại không có công đức?" Tổ đáp: "Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệp ở cõi Trời-Người như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài." Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh vào mặt nhưng vẫn chưa nhận ra yếu chỉ tu hành bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức. Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Vua Lương nghĩ rằng cất chùa, độ Tăng Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật. Nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh cũng vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các vọng niệm phải-quấy, tốt-xấu, đúng-sai, ta-người để sống lại với tâm sáng suốt của mình, hay còn gọi là Phật tánh.

Người đến với đạo Phật có hai hình thức: tại gia và xuất gia. Song, xuất gia là số ít, người tại gia là số nhiều, là nền tảng của đời sống gia đình và xã hội. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy, người xuất gia nêu cao tinh thần dấn thân phục vụ vì Tam Bảo. Người tại gia ngoài việc lo cho gia đình và xã hội, thấu hiểu lý nhân quả nghiệp báo còn cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu học và hành trì. Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm bởi Ngài là vua một nước, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, ông đã giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết-giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.

Công đức là do tu tâm mà được, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâm rõ bản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết. Những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của Trời-Người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải, quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ. Song, hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử. Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình rồi sanh tâm cống cao ngã mạn; nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn sẽ sanh tâm coi thường, khinh rẽ họ thì không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu.

Chính vì vậy, là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết quân bình phước huệ song tu, một mặt tích lũy phước báu, một mặt buông xả phiền não, nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật dù có bố thí cúng dường, làm nhiều phước thiện cũng đều là công đức cả vì họ làm trong vô tâm, làm mà không chấp trước việc làm của mình. Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt, không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích mà không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu mọi người biết làm phước và tu tâm thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

Phước Huệ song tu vẫn là điểm then chốt cho người học Phật, nhưng chúng ta đừng bao giờ xem nhẹ việc làm phước, vì có phước và biết cách sắp xếp thời gian để huân tu trí tuệ là tiến trình cho con đường hành Bồ tát đạo đến khi thành Phật viên mãn mới thôi. Nhờ bố thí nhiều đời nên chúng ta gặt hái được nhiều phước báo, do đó chúng ta tín tâm Tam Bảo, tin sâu nhân quả mà cố gắng duy trì phát tâm học chánh pháp, tu hạnh buông xả nên từng bước chuyển hoá được phiền não tham-sân-si. Mười phương chư Phật thành tựu đạo giác ngộ-giải thoát cũng từ hạnh bố thí làm nền tảng.

Như chúng ta đã biết, bố thívẫn là điều kiện quan trọng thiết yếu của người Phật tử, nhờ vậy ngày càng phát triển tâm từ bi rộng lớn. Chính vì vậy mà người cho được nhiều hơn người nhận, bởi người nhận chỉ được chút vật chất nhưng người cho được cả một niềm vui tinh thầnvì giúp được người khác vơi bớt nỗi khổ niềm đau. Công đức có khả năng giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, chuyển hoá phiền não tham-sân-si. Công đức là công phu tu tập bên trong nhờ hành trì theo lời Phật dạy, luôn luôn giữ gìn Giới luật, niệm Phật, Bồ tát, tu tập thiền định, nhờ vậy phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật để buông xả vọng niệm. Những việc làm này đem lại lợi ích cho nhiều người như vậy thì tất nhiên sẽ giúp chúng ta có thật nhiều phước đức. Tuy nhiên, nếu chúng ta giúp người mà mình không biết tu tâm dưỡng tính thì ta sẽ dính mắc vào việc làm của mình nên thấy có ta giúp, người là đối tượng được giúp và vật thí. Nếu như bố thí, cúng dường mà tâm không mong cầu gì cả, cúng chùa để chùa có thêm phương tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi người, giúp người để người qua cơn khó khăn túng thiếu mà không đắn đo, không suy nghĩ, không tính toán gì thêm nữa thì chúng ta sẽ chuyển hoá được phiền não tham-sân-si.

Tâm cầu danh của chúng ta sẽ giảm bớt, tâm chấp ngã cũng nhẹ hơn trước. Chúng ta không làm những việc ác mà hay làm tất cả việc thiện nhưng không chấp chặt vào những việc làm đó thì tâm ý của ta sẽ được thanh tịnh. Ðó là ta biết tu tâm dưỡng tính, vừa biết làm phước, vừa biết tu tâm. Khi làm việc thiện nếu ta chấp chặt vào đó thì tâm của mình sẽ bực dọc, bất an, khó chịu khi bị người khác phê bình, chỉ trích. Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình, từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc. Phước đức là diệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất-tinh thần giúp người bớt khốn khổ, tạo nên những nhân tốt.

Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dả ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, chỉ có nguời công đức đầy đủ mới không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sự sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.

Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo nên không buồn đau, sầu khổ. Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức thì đến khi hết phước sẽ gặp tai họa. Công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét. Người tu hành chân chính dù có bị đói khát, thiếu thốn vẫn không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó, và đó cũng là chỗ khác nhau của công đức và phước đức. Giúp đỡ, sẻ chia giúp ta thiết lập tình thương, trên cơ sở đó tạo ra mối quan hệ tương quan, tương duyên trong xã hội cộng đồng nhằm phát triển tốt đẹp về mọi mặt bền vững, lâu dài. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải làm như thế nào để tạo ra phước báo nhằm hoàn thiện chính mình và đóng góp lợi ích cho nhân loại.

Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bât hạnh của tha nhân, là hạnh lành đầu tiên mà đức Phật lúc nào cũng nhắc đến. Bản chất của con người là luôn muốn có, muốn thêm, muốn nữa, không bao giờ thấy đủ, không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đang có. Muốn được sống an lạc, hạnh phúc ta hãy nên bằng lòng với những gì mình đang có và cố gắng duy trì, gìn giữ và phát triển. Mong cầu nhiều, mơ ước nhiều mà không được như ý chỉ thêm nhiều phiền muộn, đau khổ mà thôi.

Nói tóm lại, người Phật Tử chân chính phải nên biết bố thí là nấc thang đầu tiên để san sẻ nỗi khổ niềm đau cho những người bất hạnh. Nó là niềm an ủi lớn lao trong cuộc sống, là nhịp cầu kết nối yêu thương bằng tình người trong cuộc sống. Tiến xa hơn một bước nữa, bố thí là biết buông xả sự lầm chấp thân tâm này làm ngã, từ đó có "ngã sở" là "của ta" nên bị trói buộc bởi phiền não tham-sân-si. Bố thí trọn vẹn là khi mình giúp ai mà không thấy có người giúp, đối tượng được giúp và vật thí giúp. Bố thí như vậy có năng lực giúp ta vượt qua bể khổ sông mê, chóng đến bờ giác ngộ-giải thoát. Chúng ta hãy nên xây dựng và phát triển, gìn giữ chùa; đóng góp, tham gia các hoạt động xã hội; giúp cho mọi người có điều kiện để học hỏi, tu tập nhằm chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thanh an vui hạnh phúc và đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.13/9/2014.