Thursday 17 April 2014

Đôi điều chia sẻ kinh nghiệm tu tập chánh pháp

image
“Lần đầu tiên xuất gia
Phật tìm hai vị Thầy
Ngoại đạo thời bấy giờ
Đã đắc bốn thiền tưởng
Từ không vô biên xứ
Đến phi phi tưởng xứ
Còn có tên gọi nữa
Là bốn thiền Vô Sắc
Nhờ nỗ lực tu hành
Một thời gian không lâu
Ngài đã chứng đắc được
Như Thầy mình không khác
Nhưng khi nhập thiền  định
Thân tâm thật an lạc
Thế mà xả  thiền ra
Tham, sân, si vẫn còn
Hoàng tử thấy rõ  rằng
Tu không diệt tam độc
Thì làm sao làm chủ,
Vượt Sinh, Già, Bệnh, Chết
Và chấm dứt tái sinh?”
(Thích Nguyên Tánh)
Khi đức Phật còn là Thái Tử con vua Tịnh Phạn đang sống một cuộc đời Đế Vương như vậy. Nhưng một hôm ra bốn cửa thành Ngài nhận thấy được bốn nỗi khổ của loài người là sinh già bệnh chết. Về hoàng cung Ngài không ăn không ngủ, luôn luôn trăn trở lo âu vì rằng đến một ngày nào đó Ngài cũng như những người mà Ngài đã tận mắt trông thấy ngoài cửa thành không khác. Nghĩa là Ngài vẫn phải chịu già bệnh chết như họ mà thôi; một ngày nào đó thần chết sẽ rước Ngài đi và Ngài sẽ bỏ lại sau lưng tất cả cái mà Ngài hôm nay đang thụ hưởng. Mặc dù vua cha không đồng ý nhưng Ngài đã tìm mọi cách thuyết phục. Cuối cùng vì yêu cầu của Ngài quá cao vua Tịnh Phạn không làm sao đáp ứng được nên nhà vua đành nhượng bộ:
1-Vua cha làm thế  nào cho con trẻ mãi không già
2-Vua cha làm sao con sống không có bệnh
3-Vua cha làm sao cho con sống mãi không chết
Thế rồi trong đêm khuya thanh vắng hoàng tử đến bên vợ con nhìn lại lần cuối cùng để giả biệt và hy vọng một ngày nào đó khi tu chứng đạo sẻ về độ vợ con và hoàng tộc. (Sau này khi chứng đạo những bài kinh đức Phật đã để lại nguyên gốc trong kinh trung bộ đó là kinh vương tử, kinh giáo giới La-Hầu-La đã minh chứng điều đó). Rồi Ngài cùng Sa-Nặc lên ngựa thực hành một cuộc xả bỏ vĩ đại nhất trần gian mà từ cổ chí kim chưa có ai giám làm như Ngài, để đạt được nguyện vọng thiết tha nhất luôn cánh cánh bên lòng như đã nói ở trên đó là làm chủ được bốn nỗi khổ trên đời mà không ai dù là con vua cháu chúa như Ngài cũng không thoát được và chấm dứt không còn bị luân hồi chi phối trên cõi đời này nữa.
Chỉ giản đơn có bốn chữ vậy thôi vậy mà con đường để đến đích không giản đơn chút nào. Dù là chuyện khó tin, vì rằng: "Trung ngôn nghịch nhĩ", "Nói thật không nghe, nói dối nghe ầm ầm". Bởi vậy xin mời quý vị kiên nhẫn cùng chúng tôi: "Xem Bụt hãy đi đến chùa"; ''Trăm lần nghe không bằng một lần thấy". Chúng tôi xin chia sẻ cùng quý vị những gì mà có thể nói rằng khi quý vị tìm hiểu, thực hành được rồi thì mọi tài sản trên thế gian này không là cái gì nữa! Đúng như lời của vị hoàng tử đã dạy sau khi tu chứng đạt bốn chân lí:
“Phàm có tài sản gì,
Ðời này hay đời sau,
Hay ở  tại thiên giới,
Có  châu báu thù thắng,
Không gì sánh bằng được,
Với Như Lai Thiện Thệ,
Như  vậy, nơi Ðức Phật,
Là  châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.”
             (Tiểu Bộ Kinh - tập I, Kinh Tiểu Tụng VI. Kinh Châu Báu)
Nếu như quý  vị tinh ý một chút quý vị sẽ suy nghĩ rằng người theo đạo Phật trên thế gian này rất đông vậy mà sao chưa nói người tại gia mà các sư cụ vẫn bị khổ đau như thường, họ vẫn bị bệnh, vẫn đi viện, vẫn bị ung thư.
Quý vị hãy cùng chúng tôi kiên trì nhẫn nại để theo lời dạy của bậc Giác Ngộ quý vị mới rõ biết đâu đúng đâu sai, đâu tà, đâu chánh rồi từ đó quý vị tự nhận xét, tự đánh giá. Còn bây giờ khi chưa chứng đạt chân lý nếu chúng tôi nói rằng chỉ đạo này là đúng còn tất cả sai lầm là chúng tôi đã mang tội làm khổ mình khổ người rồi. Vì trên thế gian này biết bao nhiêu là đạo nếu nói đạo này đúng thì lại đụng chạm đạo kia. Đừng nói gì các đạo khác mà ngay trong đạo Phật cũng không biết bao nhiêu tông phái. Nào là Nam Tông, Bắc Tông; nào là Thiền Tông Tịnh Độ Tông; Nào là Mật Tông, Pháp Hoa Tông... Trong khi đó kinh Nikaya dạy: "Pháp của ta không có thời gian đến để mà thấy". Nghĩa là ai không học không tu thì thôi mà ai chịu khó học, chịu khó hành là có giải thoát tức thời; Ví dụ có người hay nghiện rượu nay bị bệnh gan có người đệ tử Phật bảo rượu, thịt gây ung thư gan người này bỏ rượu, thịt thế là bệnh gan được phục hồi. Hoặc có người nọ đến vu oan giá họa gây mất đoàn kết người theo đúng kinh sách Nguyên Thủy nhớ lại bài kệ trong kinh:
"Nó  mắng tôi, đánh tôi,
Nó  thắng tôi, cướp tôi "
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
"Nó  mắng tôi, đánh tôi,
Nó  thắng tôi, cướp tôi, "
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
"Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được.
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu ".
                (Tiểu Bộ Kinh tập I, Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu)
Khi dùng Chánh Tư Duy trong Bát Chánh Đạo tư duy bài kệ trên như vậy là chúng ta đã vơi đi được rất nhiều cơn sân đang bùng cháy. Sau đó ta quán về nhân quả ba đời lại càng đem đến an lạc cho ta hơn nữa. Vậy quán như thế nào? Quán rằng mọi người trên thế gian này kể cả cha mẹ anh em, con cái thân bằng quyến thuộc, kể cả động vật xung quanh ta đều là có duyên nhân quả nhiều đời nhiều kiếp với nhau , đã từng nợ nần nhau; kiếp này tái sanh trở lại trên thế gian này để mà trả, trả, vay, vay; nếu thuận duyên thì giúp đỡ lẫn nhau, nghịch duyên thì chống trái cãi cọ, thậm chí chém giết nhau; vì vậy ta hãy tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng để thanh toán cho xong món nợ này.
Đó có phải là: "Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy” phải không quý vị? Như đã nói ở trên hiện nay trên thế gian quá nhiều tôn giáo chẳng biết đâu chánh đâu tà vậy xin mời quý vị hãy nghe vị tiến sỹ Phật học lừng danh thế giới là người đầu tiên được cấp bằng tiến sỹ về luận án dịch từ kinh điển Pali sang tiếng mẹ đẻ Việt Nam mà ai đọc là hiểu được một cách cụ thể rõ ràng chứ không có tính siêu hình, mơ hồ trừu  tượng như kinh sách của các học giả mà chắc quý vị đã từng đọc, đã từng tham khảo. Đó chính là Hòa Thượng Minh Châu cùng quê với Chủ Tịch Hồ Chí Minh:
"Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mìnhchứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì Ðạo Phật là Ðạo đến để mà thấy chớ không phải Ðạo đến để nhờ người thấy hộ, Ðạo của người có mắt, không phải Ðạo của người nhắm mắt; Ðạo của người thấy, của người biết, không phải là Ðạo của người không thấy, không biết. Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm. Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy chúng tôi đã cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chính chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn sư chúng ta.” (trích Lời Giới Thiệu Trung Bộ Kinh - Bản In lần Thứ Nhất Năm 1973, Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Việt từ tiếng Pali)
Ở đây tác giả không muốn động đến rừng kinh sách của các học giả nên Ngài chỉ gợi ý cho người đọc rằng Ngài là người đã từng phiên dịch nhiều kinh điển của Phật do các học giả biên soạn ra nên Ngài rõ biết kinh nào là "Thật sự Nguyên Thủy", "Những Lời Phật dạy thực sự là của đức Phật" có nghĩa Ngài muốn nhắc độc giả rằng đó mới là kinh gốc của Phật. Hòa Thượng muốn nhấn mạnh bốn chữ: "Thật Sự Nguyên Thủy", "Thực sự là của Phật" chính là Ngài đã gửi gắm đến người đọc hãy tìm kinh thật mà đọc đừng đọc kinh ngụy tạo tốn công vô ích lại còn cho đó là của Phật thuyết thì có phải phỉ báng Phật?. Chắc quý đọc giả đã rõ lời dạy của Hòa Thượng rồi. Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa.
Chúng tôi là những hành giả chứ không phải là một học giả hay một giảng sư, một nhà lí luận hay một nhà phê bình kinh sách nào đúng kinh sách nào sai mà chúng tôi muốn nói lên bộ kinh gốc như tác giả đã giới thiệu khi dịch bộ kinh này ngõ hầu hướng đến cho quý vị bất luận là đệ tử Phật hay không phải đệ tử Phật, miễn là ai muốn tìm hiểu đạo Phật chân chánh không còn bị lầm lạc như một thời chúng tôi đã bị lạc vào bát quái trận đồ, vào mê hồn trận suýt nữa bỏ mạng . Sau đó nhờ tu tập theo Chánh Pháp Nguyên Thủy dựa trên 37 Phẩm trợ đạo, sử dụng pháp Như Lý Tác Ý… thì chỉ trong vòng hai mươi ngày cả ổ bệnh trong mình có cả ung thư cổ mà vẫn được đẩy lùi.
Vì lợi ích vô cùng to lớn không thể nghĩ bàn như vậy nên chúng tôi muốn trao đổi những kinh nghiệm của mình, chia vui cùng quý vị mà thôi vì rằng ai ai trên đời này cũng đều không thoát khỏi sanh già bệnh chết mà đức Phật đã khổ công đi tìm kiếm mới chứng được đạo, từ đó chúng ta mới được thừa hưởng tài sản vô giá mà Ngài để lại cho nhân loại; nhưng tiếc thay không ít Tổ Sư để lại kinh mê tín dị đoan của đạo Khổng và đạo Lão làm hao phí bao nhiêu của tiền của nhân loại mà rốt cuộc chỉ được đau khổ mà thôi. Chúng ta cần dựa trên Bát Chánh Đạo để biết đâu là pháp của Phật đâu là pháp biến tướng theo đạo Khổng, đạo Lão Trung Hoa từ đó dẹp bỏ mê tín dị đoan làm tốn kém tiền bạc của nhân dân vô ích và đặc biệt nguy hiểm hơn cả là làm cho thế hệ trẻ mất hết tự lực bản thân, chuyên tìm cầu tha lực ở Bề Trên, tin vào thuyết định mệnh đã được truyền sang Việt Nam trong 1000 năm Bắc thuộc mà không tin vào đạo đức nhân bản, nhân quả để chuyển ác thành thiện; sa vào đường ác giết cha, giết mẹ, cướp của hại người cũng chỉ vì không thực hành năm điều lành của đạo Phật. Đức Phật dạy trong Trường Bộ Kinh tập I, Kinh Sa Môn Quả:“Này các Hiền giả, những Tôn giả này làm những điều ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này.”. Xin quý vị suy ngẫm và thực hành là thoát khỏi hai cửa ngục Bệnh Viện - Nhà Tù mà không hề mất một xu nào hết.
Chúng tôi thực sự tha thiết mong mỏi nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân loại toàn cầu nói chung đặc biệt là những người chưa gặp được chánh pháp sẽ tìm được chánh Pháp. Vì dù rằng chưa chứng được Tứ Thánh Định và Tam Minh nhưng chúng tôi cũng đã giải quyết được ba nỗi khổ đó là đã làm chủ được SINH GIÀ BỆNH (tuổi cao nhưng tâm trí minh mẫn, cơ thể quắc thước, có bệnh thì tác ý đuổi đi), cũng là những người rất hạnh phúc trên thế gian này rồi vì bệnh tật đã chấm dứt, khi có bệnh dùng pháp Phật đẩy lùi chứ không phải đi viện, không dùng thuốc nữa. Đúng như lời Phật dạy:
“Vui thay, chúng ta sống
Không bệnh, giữa ốm đau!
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống, không ốm đau!”
                           (Tiểu Bộ Kinh tập I, Kinh Pháp Cú, Phẩm An Lạc)
Nếu không gặp được Chánh Phật Pháp rồi hành theo thì chúng tôi đã chết cách đây 11 năm rồi. Là đệ tử Phật chúng tôi không nỡ lòng nào ngồi nhìn nỗi đau của đồng loại đang sống trong cảnh ốm đau bệnh tật, vì vậy còn sống được ngày nào trên thế gian này chúng tôi đều áp dụng pháp Tứ Chánh Cần của đức Phật luôn luôn Ngăn Ác Diệt Ác Pháp và Sanh Thiện Tăng Trưởng Thiện Pháp để không để thời gian qua đi một cách vô ích; chúng tôi luôn tìm mọi cách để ai có duyên là sẵn sàng giúp đỡ họ vì rằng họ chưa được gặp Chánh Pháp như chúng tôi nên bệnh viện càng ngày càng chật ních:
"Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn  được quả ác nghiệp."
(Tiểu Bộ Kinh tập I, Kinh Pháp Cú, Phẩm Ác)
Phương pháp nữa là quán xét nhân quả ba đời, tức là mọi quan hệ trên đời này kể cả loài người loài vật cũng như thảo mộc đều quan hệ mật thiết với nhau nếu ai có tâm từ bi thương yêu muôn loài chúng sinh và cây cối vạn vật là người ấy chẳng cần tu gì nữa. Nếu chưa có được lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu như vậy thì hãy quán xét về nhân quả mà đã là nhân quả thì có hai duyên thuận và nghịch; trường hợp có nghịch duyên, muốn chuyển duyên nghịch thành thuận thì phải áp dụng ba đức đó là TÙY THUẬN, NHẪN NHỤC, BẰNG LÒNG là mọi việc hoàn toàn tốt đẹp. Rồi chúng ta tìm lời ái ngữ khuyên giải miễn làm sao cho đối tượng vui lòng tức là đã chuyển hóa được nhân ác thành nhân thiện. Đó mới là đạo giải thoát chứ.
Nếu chúng ta phạm giới phá giới, tu mà tâm tham chưa xả, còn lợi dụng đạo Phật để làm nghề kinh doanh lấy tiền bất chánh thì bắt buộc luật nhân quả phải thi hành bản án mà từ Thân, Khẩu và Ý của mình tạo ra mà thôi chứ chẳng có số phận định mạng nào can thiệp vào đây cả. Có thờ một mẹ Quán Âm chứ đến trăm ngàn mẹ thì luật nhân quả cũng không tha thứ. Như vậy Đạo Phật mới được gọi là đạo của loài người, mới được gọi là đạo bình đẳng nếu không thì loài người toàn là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối , uống rượu hết cả mà không có quy luật này xử phạt bằng cách làm cho họ phải chịu bốn nỗi khổ trên thì còn ai tu thiện làm gì cho khổ. Chính nhờ quy luật này mà làm cho người ác mới sáng mắt ra. Nếu không vậy thì thế gian này là thế giới hỗn loạn ai còn sống được nữa?
Nhất là trong khi Liên Hiệp Quốc đang kêu gọi nhân loại hãy ăn chay, sống xanh, cứu địa cầu; ai ăn thuần chay là anh hùng cứu tinh cầu. Chúng ta nên thấy rõ lợi ích thiết thực của việc ăn trường chay, thực hiện điều đó là tấm gương cho bao nhiêu người noi theo. Nói về cách thọ dụng thực phẩm đối với tu sĩ, cư sĩ cũng như vấn đề Phật tử cúng dường thực phẩm đúng chánh pháp, thì đức Phật đã dạy trong Trường Bộ Kinh, bài kinh Jivaka:
“Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: "Hãy đi và dắt con thú này đến", đó là nguyên nhân thứ nhứt, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: "Hãy đi và giết con thú này", đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.”
Do vậy, dựa trên đạo đức về ăn uống theo tinh thần từ bi biến mãn khắp chúng sanh của nhà Phật, chúng ta chỉ nên thọ dụng thực phẩm khi không thấy thịt chúng sanh trong khẩu phần ăn của mình, không nghe mùi tanh mùi hôi đặc trưng của thịt chúng trong sanh khẩu phần ăn của mình, và bản thân cũng không còn nghi ngờ rằng có thịt chúng sanh trong khẩu phần ăn của mình!
Chính vì lẽ đó nên chúng tôi xin cố gắng viết lên những dòng này để cho ai hữu duyên được đọc ngõ hầu cứu giúp được người nào tìm về chánh pháp của đức Thế Tôn là quý lắm vậy:
“Cho ăn là cho lực,
Cho mặc là cho sắc,
Cho xe là cho lạc,
Cho đèn là cho mắt.
Ai cho chỗ trú xứ,
Vị  ấy cho tất cả,
Ai giảng dạy Chánh pháp,
Vị  ấy cho bất tử.”HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Trừ diệt tâm cống cao, ngã mạn.

image
Người cống cao, ngã mạn là người coi trọng bản ngã của mình lên trên hết. Nó là biểu hiện của tâm hiếu thắng, kiêu ngạo, cống cao, thiếu nhã nhặn, thiếu khiêm tốn và không chịu nhún nhường bất cứ một ai.
Người ngã mạn thường song hành với các tâm lý cố chấp, bảo thủ và độc đoán. Cống cao, ngã mạn, khinh người là con đẻ của sự chấp ngã thân này là thật ta và của ta. Nghiệp dụng của nó là luôn coi trọng mình mà hay khinh khi, miệt thị người khác. Dù người đó thật sự hơn mình đủ về mọi mặt, nhưng vì chấp ngã, tự ái nặng nề, nên họ lúc nào nào cũng thấy mình hay, mình giỏi hơn thiên hạ nên dễ dàng coi thường người khác.
Người cống cao, ngã mạn khi làm được một công việc nào đó thành công thì họ lên mặt hống hách, có vẻ như ta đây là người tài ba, lỗi lạc bậc nhất. Họ tự thấy mình là người có công lao lớn rồi khinh thường, mạt thị kẻ khác nên dẫn đến nhiều người không ưa thích. Đó là họ đang mắc phải chứng bệnh “công thần” khá nặng mà không hay biết. Từ đó, mọi người sẽ tìm cách xa lánh và thù hằn, ghét bỏ họ. Đó là hậu quả do tâm cống cao, ngã mạn gây ra.
Như chúng ta đã biết, ngã mạn là một trong sáu món căn bản phiền não, đó là tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến, có gốc rễ sâu dày từ si mê, chấp ngã mà ra; không phải ai cũng có thể dễ dàng diệt trừ nó được; muốn đoạn trừ nó chỉ có cách là chúng ta phải cố gắng, ra sức nỗ lực tu học và hành trì buông xả ngay nơi từng ý niệm khi vừa phát sinh thì mới có thể lần hồi chuyển hoá chúng được.
Điều chủ yếu là chúng ta phải hằng tỉnh giác trong từng phút giây, quán chiếu sâu vào bản chất của nó để thấy rõ tự tánh của nó vốn là không có thực thể. Nếu chúng ta không đề cao cảnh giác thì sẽ làm nô lệ cho nó sai khiến. Hậu quả xảy ra sẽ rất tai hại. Có Chánh niệm tỉnh giác thì chúng ta mới nhận diện nó một cách rõ ràng, và như thế nó không thể nào gây tác hại cho chúng ta được. Đó là do ý chí phấn đấu, nỗ lực, dụng công tu hành của mỗi người mà sự diệt trừ nó nhanh hay chậm mà thôi.
Trong kinh, Phật đưa ra 3 dạng tâm lý ngã mạn: Ngã mạn tuổi trẻ, ngã mạn không bệnh và ngã mạn sự sống. Ngã mạn tuổi trẻ là thái độ chủ quan, lấn lướt, bảo thủ sai lầm. Ngã mạn không bệnh là không bệnh dễ sinh, là ỷ cậy thân thể. Ngã mạn sự sống là cậy sống lâu mà làm việc bất thiện về 3 nghiệp thân-miệng-ý.
Cả ba loại ngã mạn này đều làm cho con người đắm nhiễm, sa đọa vào những ác nghiệp. Vì ngã mạn là chấp thủ, là cống cao, là chấp nhất, nên người lìa ngã mạn sẽ thoát ly mọi ràng buộc, hệ lụy. Phật dạy, “này các Tỳ kheo, ai đoạn trừ tâm ngã mạn, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho nó không còn hiện hữu lại, người ấy là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn bất cứ một hệ lụy nào”. Do đó, dứt trừ tâm ngã mạn là một việc khó làm.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Nhẫn nhịn.

image
Nhẫn nhịn là một trong những đức tính cần thiết đối với con người, vì bản tính con người không ai giống ai hoàn toàn được, xuất phát từ giáo dục, hoàn cảnh, tính cách, nên mỗi người đều có những cái riêng, nếu ta không nhẫn nhịn thì sẽ dễ bị đổ vở trong mọi quan hệ, mà trong đó ta cũng là nạn nhân.
Một khi sân hận nỗi lên thì phiền não lập tức có mặt theo đúng với nhân quả của nó, sân hận khiến cho ta không làm chủ được mình, và kéo theo nhiều hệ lụy khác tùy theo mức độ và tính chất của từng trường hợp.
Vậy thì sân hận bắt nguồn từ đâu? Đã là con người thì ai cũng có cái ngã, cái tôi của mình, nó được hình thành theo một chiều hướng nhất định nào đó, nhưng tư duy và nhận thức cũng góp phần, vào việc ứng xử của từng người.
Thực ra thì sân hận và nhẫn nhịn là hai mặt của một vấn đề, nếu nhẫn được thì mọi việc sẽ trôi qua, còn sân hận thì sẽ gây ra đau khổ cho người và cho mình, khi tiếp xúc với những điều trái ngược với ý của ta thì sân hận nỗi lên, vì bản chất của bản ngã chỉ có một chiều, nhưng các bạn nên nhớ là không có gì là tuyệt đối cả, tất cả là do nhận thức của ta mà thôi.
Ví dụ cùng một trường hợp mà người thì giận còn người thì không, như vậy thì người giận cho rằng việc đó là quan trọng nên họ mới giận, còn người kia không giận vì cho rằng nó cũng bình thường thôi.
Vì vậy giận hay không giận là tùy theo nhận thức của mỗi người, cơn giận nhiều khi bộc phát một cách bất ngờ làm ta không kiềm chế được, mình cũng đừng ngạc nhiên vì nó đã được lập trình sẵn trong tâm chúng ta rồi, nên khi trái ý nó lập tức phản kháng một cách tự nhiên thôi, nhất là những người thân trong gia đình, vì có sự ràng buộc về tình cảm, danh dự, trách nhiệm nên ta dễ sân hận hơn người ngoài, nhưng dù với lý do gì thì sân hận vẫn không tốt cho ta và người khác. ..

Đối với người tu hành thì nhẫn nhịn vô cùng quan trọng, vì nó là nền tảng của việc tu hành, là thước đo của sự tu tập, khi ta sân hận tức là ta đã đánh mất chánh niệm, trí tuệ, nhận thức của mình, đôi khi người ta có thể bố thí một số tiền lớn nhưng không nhịn được một câu nói, điều đó cho ta thấy rằng để thực hành pháp nhẫn nhịn không phải là dễ, việc nhỏ ta nhẫn được nhưng việc lớn chưa chắc ta đã nhẫn được. ...

Sở dĩ ta phải thường xuyên quán chiếu về thân, về tâm, vô thường, vô ngã là vì nhờ quán chiếu ta mới thấy được thực tướng của hiện tượng mà không chấp ngã, ví dụ như thân người là giả tạm, huyển hóa, phù du, nó không thật, đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, tâm thì cũng vô thường, lúc thế này lúc thế khác, chạy theo bên ngoài, lấy giả làm thật tự rước lấy phiền não chứ chẳng được gì, quán về vô ngã thì ta thấy được, cái gì có tướng đều là duyên hợp, ngay cả tâm ta cũng vậy, mục đích của ta là làm sao sống được với tâm chân thật của mình chứ không phải những cái bên ngoài.
Từ nhận thức đó ta nhìn nhận sự việc nhẹ nhàng hơn, và nó trở thành không quan trọng đối với ta, mà đã không quan trọng thì có gì phải giận nữa chứ. Đối với người tu tịnh độ thì phải lưu ý, đừng để mất chánh niệm, vì khi mất chánh niệm tâm ta dễ bị lôi cuốn, ngựa quen đường cũ, vì chưa thuần thục nên ta rất cần giữ chánh niệm, tập trung vào câu niệm Phật thì tất cả sẽ qua đi.
Nói tóm lại để thưc hành pháp nhẫn là rất khó, vì tâm ta đã quen với tập khí lâu đời lâu kiếp rồi, nhưng ta tinh tấn tu tập đúng phương pháp thì bản ngã sẽ dần mòn, mỗi ngày một ít rồi cũng sẽ thành công. Ta tu nhiều lợi lạc nhiều, ta tu ít lợi lạc ít, tùy ta quyết định, ta đừng lấy ta so sánh với người khác, ta cũng đừng chủ quan là ta đúng khi ta sân hận, cũng không ai cấm ta nói nhưng đừng nói bằng tâm sân hận nhé bạn...HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY=17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Đừng để phát tâm sân hận. 

image
Đã là con người thì ai cũng có cái ngã, cái tôi của mình, nó được hình thành theo một chiều hướng nhất định nào đó, nhưng tư duy và nhận thức cũng góp phần, vào việc ứng xử của từng người.
Thực ra thì sân hận và nhẫn nhịn là hai mặt của một vấn đề, nếu nhẫn được thì mọi việc sẽ trôi qua, còn sân hận thì sẽ gây ra đau khổ cho người và cho mình, khi tiếp xúc với những điều trái ngược với ý của ta thì sân hận nỗi lên, vì bản chất của bản ngã chỉ có một chiều, nhưng các bạn nên nhớ là không có gì là tuyệt đối cả, tất cả là do nhận thức của ta mà thôi.
Ví dụ cùng một trường hợp mà người thì giận còn người thì không, như vậy thì người giận cho rằng việc đó là quan trọng nên họ mới giận, còn người kia không giận vì cho rằng nó cũng bình thường thôi.
Vì vậy giận hay không giận là tùy theo nhận thức của mỗi người, cơn giận nhiều khi bộc phát một cách bất ngờ làm ta không kiềm chế được, mình cũng đừng ngạc nhiên vì nó đã được lập trình sẵn trong tâm chúng ta rồi, nên khi trái ý nó lập tức phản kháng một cách tự nhiên thôi, nhất là những người thân trong gia đình, vì có sự ràng buộc về tình cảm, danh dự, trách nhiệm nên ta dễ sân hận hơn người ngoài, nhưng dù với lý do gì thì sân hận vẫn không tốt cho ta và người khác...
Đối với người tu thì nhẫn nhịn vô cùng quan trọng, vì nó là nền tảng của việc tu hành, là thước đo của sự tu tập, khi ta sân hận tức là ta đã đánh mất chánh niệm, trí tuệ, nhận thức của mình, đôi khi người ta có thể bố thí một số tiền lớn nhưng không nhịn được một câu nói, điều đó cho ta thấy rằng để thực hành pháp nhẫn nhịn không phải là dễ, việc nhỏ ta nhẫn được nhưng việc lớn chưa chắc ta đã nhẫn được...
Sở dĩ ta phải thường xuyên quán chiếu về thân, về tâm, vô thường, vô ngã là vì nhờ quán chiếu ta mới thấy được thực tướng của hiện tượng mà không chấp ngã, ví dụ như thân người là giả tạm, huyển hóa, phù du, nó không thật, đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, tâm thì cũng vô thường, lúc thế này lúc thế khác, chạy theo bên ngoài, lấy giả làm thật tự rước lấy phiền não chứ chẳng được gì, quán về vô ngã thì ta thấy được, cái gì có tướng đều là duyên hợp, ngay cả tâm ta cũng vậy, mục đích của ta là làm sao sống được với tâm chân thật của mình chứ không phải những cái bên ngoài.
Từ nhận thức đó ta nhìn nhận sự việc nhẹ nhàng hơn, và nó trở thành không quan trọng đối với ta, mà đã không quan trọng thì có gì phải giận nữa chứ...
Đối với người tu tịnh độ thì phải lưu ý, đừng để mất chánh niệm, vì khi mất chánh niệm tâm ta dễ bị lôi cuốn, ngựa quen đường cũ, vì chưa thuần thục nên ta rất cần giữ chánh niệm, tập trung vào câu niệm Phật thì tất cả sẽ qua đi.
Nói tóm lại để thưc hành pháp nhẫn là rất khó, vì tâm ta đã quen với tập khí lâu đời lâu kiếp rồi, nhưng ta tinh tấn tu tập đúng phương pháp thì bản ngã sẽ dần mòn, mỗi ngày một ít rồi cũng sẽ thành công.
Ta tu nhiều lợi lạc nhiều, ta tu ít lợi lạc ít, tùy ta quyết định, ta đừng lấy ta so sánh với người khác, ta cũng đừng chủ quan là ta đúng khi ta sân hận, cũng không ai cấm ta nói nhưng đừng nói bằng tâm sân hận nhé bạn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Bài học đầu tiên của đời người.

image
Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền học thạc sĩ, rồi lại học tiến sĩ, sau nhiều năm đèn sách cuối cùng cũng đã hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui. Một hôm người đệ tử này trở về, thưa với Đại sư. Thưa thầy nay con đã có học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa? Ngài Tinh Vân bảo: Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

1. Thứ nhất, “học nhận lỗi”. Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

2. Thứ hai, “học nhu hòa”. Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.

3. Thứ ba, ”học nhẫn nhục”. Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

4. Thứ tư, “học thấu hiểu”. Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

5. Thứ năm, “học buông bỏ”. Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!

6. Thứ sáu,“học cảm động”. Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

7. Thứ bảy, “học sinh tồn”. Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

8. Thứ tám, "Học Yêu Thương". Chỉ có Yêu Thương mới có thể bao dung, tha thứ , không hiểu lầm ,không  xuyên tạc oán hận , ganh ghét  ngươì xung quanh .

9. Thứ chín : "Học trân trọng" .
Biết trân trọng nhau mới có được Yêu Thương. Trân trọng ngươì khác là trân trọng chính bản thân  mình.

10. Thứ Mươì ."Học chấp nhận"  Biết chấp nhận mới biết yêu thương , tha thứ và trân trọng sự sống và trân trọng tư cách của con ngươì , không phỉ báng con ngươì , vi`chính chúng ta đêù là con ngươì như nhau .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA ,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Ý nghĩa của việc nhận biết được nghiệp

image
Việc nhận biết được nghiệp và biết được bản thân chúng ta chưa bao giờ chết mà sinh tử chỉ là một sự thay đổi báo thân như thay một bóng đèn điện, nhưng dòng điện (linh hồn, thần thức) thì không mất sẽ giúp chúng ta biết loại bỏ các nghiệp ác, làm các việc lành để khi lâm chung, nghiệp lực nào mạnh hơn thì thần thức sẽ nương theo đó mà sanh về cõi ấy.
Riêng cảnh giới Phật thì đòi hỏi bên cạnh việc đoạn ác, tu thiện còn phải tu pháp môn phù hợp mà Phật dạy nữa thì mới có thể tự mình bức phá để viên mãn thành Phật. Hoặc phát nguyện vãng sanh và niệm Phật thì đến lúc lâm chung sẽ nhờ vào Tự lực là lực tu hành đoạn ác tu thiện, niệm Phật huân tu mà có. Cộng với Tha lực là lực gia trì, tiếp dẫn của Phật thì khi lìa bỏ báo thân này sẽ được vãng sanh về cõi Phật và thọ thân Bồ-tát, tuổi thọ vô lượng và có đầy đủ Tam minh, Lục thông, tự tại trong mười phương thế giới không hề chướng ngại. Gặp Phật, nghe pháp và tiếp tục tu hành để viên mãn thành Phật, vĩnh viễn sẽ không còn trở lại trong sanh tử luân hồi.

Vãng sanh cũng có thể hiểu như việc di dân vậy! Trên trái đất này cũng có nơi khổ đau đói kém, cũng có nơi giàu có sung túc. Trong vũ trụ có hành tinh này, hành tinh khác thì trong pháp giới mênh mông bao la này cũng có những cõi Phật, nước Phật hay các tầng Trời, Địa ngục v.v… Song, do các tầng không gian bất đồng nên chúng ta chưa nhìn thấy bằng mắt thường.
Cũng như hiện nay, các làn sóng điện thoại hay truyền hình, mặc dù không thể nhìn thấy nhưng chúng ta vẫn tin là có vì khi ti-vi bật lên thì liền nhận được ngay tín hiệu đài này đài nọ. Các cảnh giới, quốc độ khác nhau và linh hồn cũng như vậy! Linh hồn như dòng điện, chúng ta không thể thấy bằng mắt thường, nhưng khi có bóng đèn thì liền nhận ánh sáng, có quạt máy thì nhận hơi mát…
Do vì chúng ta chưa thấy nên chưa tin nhưng các cảnh giới, quốc độ và linh hồn tồn tại thế nào thì vẫn cứ y như thế đấy, không cần chúng ta phải tin hay không tin. Vấn đề ở chỗ, chiếc ti-vi của chúng ta đã bị bụi bặm phủ kín màn hình và hư hỏng nặng từ rất lâu lắm rồi nên không thể tiếp xúc qua lại được với các cảnh giới ấy.
Tất cả chỉ do vô minh nên sanh tâm vọng tưởng, chấp trước, hơn thua, phải quấy, giận hờn, thương ghét thái quá như những đám mây dày đặc che lấp hết cả mặt trời trí tuệ, chân tâm bổn tính, Phật tính của mình. Vậy, tu hành không gì khác là phải đẩy các đám mây vọng tưởng, chấp trước ấy ra thì liền có thể thành Thánh nhân, Bồ-tát, Phật.
Chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về một số pháp môn tu hành giải thoát trong phần “Một số pháp môn cơ bản” sau. Đó cũng là phần quan trọng nhất mà cuốn sách nhỏ này muốn hướng tới vậy! Mười phương ba đời chư Phật thị hiện dùng vô lượng pháp môn, phương tiện cũng chỉ nhằm mục đích duy nhất là chỉ cho chúng ta biết: Bất cứ ai ai cũng có Phật tánh và cũng có thể thành Phật.
Chư Phật không muốn chúng ta tu hành để trở thành đệ tử các Ngài mà muốn chúng ta phải vươn lên bằng với chư Phật. Đây cũng là một đặc điểm bình đẳng cao tột của Đạo Phật vậy.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA.SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Chánh kiến trong triết học Phật giáo.

image
Đạo Phật - đạo Giác Ngộ do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khai sáng như vầng thái dương xuất hiện, xoá tan những tăm tối triền miên của số kiếp con người. Kể từ khi Đạo Phật hiện diện trên thế gian này, uy danh của Đức Đạo Sư không chỉ vang dội trong thời đại của Ngài , mà đạo hạnh của Ngài vẫn còn lưu truyền suốt cả chiều dài lịch sử. Khi chúng sanh chưa trừ hết Tham, Sân, Si, và xã hội chưa thực sự đem lại thanh bình, hạnh phúc cho tất cả mọi người, thì giáo pháp của Ngài vẫn tồn tại như những giá trị bất diệt.
Ngài ra đời vì một đại sự nhân duyên lớn, Ngài đã từng tuyên bố: “Ta ra đời vì hạnh phúc của Chư thiên và loài người”. Sự xuất hiện của Ngài đã vén lên bức màn Vô Minh mà đã che phủ Tâm thức của chúng sanh biết bao nhiêu đời nhiêu kiếp. Nhiều học thuyết tranh nhau ra đời để nhằm tìm kiếm lời giải thích về con người và thế giới. Và từ đó, suốt bốn mươi chín năm chuyển pháp luân, đi khắp mọi nẻo đường để giáo hóa chúng sanh, tùy căn cơ trình độ của chúng sanh mà Ngài thuyết pháp. Tuệ giác của Ngài tuôn chảy vào tâm hồn chúng sanh thời đó và lan truyền dần đến các nước lân cận và ngày nay trở thành một tôn giáo có tầm vóc toàn cầu, đóng góp nhiều cho nền văn minh nhân loại. 
Chúng ta hãy nhìn lại những vấn đề của xã hội đương đại như là: những nạn nhân với hậu quả nghèo đói; khoảng cách mỗi ngày một sâu rộng giữa các nước giàu và nghèo; sự ô nhiễm môi trường thiên nhiên bị hủy hoại, bịnh dịch lây lan, chứng bịnh nan y mang tính chất toàn cầu mỗi ngày một lan rộng trên địa cầu; những chiến tranh và tàn sát chủng tộc; những vụ vi phạm nhân quyền và đàn áp thiểu số; những vấn đề đô thị, bạo động, ma túy; những khủng hoảng gây nên bởi thất nghiệp, ly tán gia đình, rối loạn thần kinh, và còn bao nhiêu vấn đề khác nữa…..Những nhà cầm quyền không ngừng đưa ra những phương pháp cưỡng chế, áp đảo lên những tình trạng đó thì chúng lại xuất hiện dưới dạng khác tinh vi hơn. Như thế thì đâu là phương pháp hữu hiệu nhất để giải quyết những vấn đề đó? 
Những vấn đề trên là do họ dùng những trái tim băng giá để cư xử với nhau. Thế thì biết đến bao giờ mới xua tan những áng mây sầu não, những giọt lệ đau thương của cuộc đời? Phải có một cái nhìn chính xác về thực trạng của con người, thực trạng đó theo Phật giáo đều xuất phát từ cái nhìn hẹp hòi một chiều mang nhiều thành kiến và chấp thủ như đoạn Kinh “Thiên Tinh” trong Trung Bộ Kinh có đề cập 5 hạng người tiêu biểu:
1. Thiên nặng về vật chất thế gian: Nếu ai nói với họ về bất động thì họ không quan tâm.
2. Thiên nặng về bất động, chỉ ưa nghe về bất động: Nếu chuyện liên hệ đến vật chất thế gian thì họ không quan tâm.
3. Thiên nặng về vô sở hữu xứ: Câu chuyện thích hợp với họ phải liên hệ đến vô sở hữu xứ, nếu không họ không chú tâm. Hạng này sẽ không quan tâm về câu chuyện bất động vì không liên hệ đến kiết sử bất động.
4. Thiên nặng về phi tưởng, phi phi tưởng: Không quan tâm đến những chuyện liên hệ đến vô sở hữu xứ.
5. Thiên nặng về chánh Niết Bàn: không lưu tâm đến câu chuyện liên hệ với phi tưởng, phi phi tưởng. 
Những hạng người trên tưởng minh đã nhổ mũi tên tham ái, trừ khử thuốc độc vô minh với dục và sân, và tự hào với kết quả mình đã được.”
Vì những nguyên nhân trên mà làm cho con người phải đau khổ, không nhận chân được lẽ phải của cuộc đời, chỉ nhìn cuộc đời một cách phiến diện cho đó là thật. Cho nên Đức Phật dạy chúng ta dùng trí tuệ quán sát để thấy được chân tướng của các pháp. Nhờ thấy được chân tướng của các pháp nên vị ấy được Giác Ngộ, Giải Thoát sanh tử Luân Hồi. 
Chính vì lẽ đó, chúng ta phải có cái nhìn Chánh Kiến bởi vì có Chánh Kiến chúng ta mới có thể hiểu đúng những gì chúng ta cần hiểu và làm đúng những gì chúng ta cần làm để đạt được hạnh phúc tối thiểu mà bản thân chúng ta mong muốn, cũng như hoàn cảnh chúng ta muốn xây dựng cho hôm nay và mai sau, như Đức Thế Tôn dạy trong Kinh Trung Bộ với bài “Kinh Nhứt Thiết Lậu Hoặc”: 
“Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho Người Thấy Biết, chứ không cho Người Không Thấy, Không Biết”. 
Chánh Kiến được Đức Phật đề cập trong toàn bộ giáo lý của Ngài như:Tứ Diệu Đế, Duyên Khởi, Bát Chánh Đạo, Tam Vô Lậu Hoặc, Chánh Niệm Tỉnh Giác, v.v.. Như vậy tầm quan trọng của Chánh Kiến rất cần thiết cho những người con Phật trong mọi thời đại.
Tìm hiểu Chánh Kiến trong Tam Tạng Kinh Điển, chúng ta thấy giáo lý của Thế Tôn dạy vô cùng phong phú, có khả năng đưa con người đến cái thấy biết trọn vẹn tối thượng, thỏa mãn nhu cầu hạnh phúc ở mọi tầng lớp ngay trong kiếp sống hiện tại. Đương nhiên cái thấy biết đó không phải cái thấy biết của con đường thường nhân ở mọi nền học thuật thế gian. Mọi nền học thuật thế gian đều bắt đầu từ cái thấy biết rất giới hạn về con người và thế giới. Chúng luôn luôn tạo ra cho con người tiếp thu nó khổ đau ở mặt này hay mặt khác, dù là bản thân kẻ tiếp thu nó không muốn thế.
Sự thật cho thấy rằng, một sự thể bao giờ nó cũng xuất hiện một cách tùy thuộc vào đôi mắt của con người. Trên cùng một sự thể, nó sẽ là trần thế trong ánh mắt sai lạc mông lung của người vẫn còn Tự Ngã. Nhưng qua đôi mắt của người đã giải thoát Tự Ngã, sự thể ấy lại là Chân Như. Do đó “cái nhìn” sẽ trở thành một vấn đề quan trọng bậc nhất đối với con người và tất nhiên đời sống an lạc hay khổ đau là tùy thuộc vào cái nhìn mang ánh sáng của Chánh Kiến hay là Tà Kiến. Nếu “cái nhìn” không được soi sáng bởi Chánh kiến hay Tuệ giác thì cái nhìn của chúng ta lúc nào cũng bị giới hạn bởi cái chúng ta đang làm.
Cho nên, có thể nói Chánh Kiến là toàn bộ giáo lý của Đức Thế Tôn được trình bày như một vòng tròn khép kín đến đổi chúng ta bắt đầu từ đâu trong toàn bộ giáo lý ấy cũng tìm thấy Tuệ Giác của Thế Tôn như Ngài đã tuyên bố: 
“Này Bà La Môn, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh. Giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Ở đâu có trí tuệ ở đó có giới hạnh, ở đâu có giới hạnh ở đó có trí tuệ. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng trên đời.”
Lời dạy trên cho thấy tuệ giác được Đức Thế Tôn giảng dạy nhằm xây dựng giới hạnh của con người, làm cho con người sống có phẩm chất hơn. Con người muốn có giới hạnh cần phải thực hiện tuệ giác của Ngài bằng cách: “Hãy là ngọn đuốc của chính mình, hãy là nơi nương tựa của chính mình. Đừng phó thác vào một chốn dung thân nào khác, hãy lấy chánh pháp làm ngọn đèn, làm nơi nương tựa”...HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Cuộc đời của con người là gì? Đạo là gì? 

image
Đạo Phật dạy rằng, không phải khi con người đạt được mọi thứ mình mong muốn là ta đã có sự thành đạt hạnh phúc. Hạnh phúc chân thực chỉ đạt được khi ta được giải thoát khỏi mọi sự đau khổ phiền não trong tâm trí. Và chỉ khi thấy được sự thật và chân lý của cuộc đời, tức là giác ngộ, ta mới đạt được giải thoát hoàn toàn.
Có một lần, trong lúc ngồi cùng đám bạn bè thân thiết nhàn đàm về mọi sự trên đời, tự nhiên có ai đó xoay ra đặt hai câu hỏi: "Cuộc đời của con người là gì?" và "Cái gì được gọi là Đạo?". Thế là chúng tôi đua nhau đưa ra các câu trả lời của mình. Chẳng câu nào giống câu nào, thường là rất khác nhau. Do chỗ bạn bè từ nhỏ, mọi người tranh nhau nói, chẳng ai chịu ai, cứ thế câu chuyện trở nên rôm rả...
Đọc cuốn sách nhỏ "Phật giáo là gì ?" của Thiền sư Ajahn Brahmavamso do Thượng toạ Thích Nguyên Tạng dịch và tặng, tôi có cảm giác như mình vừa được bơi lội thoải mái trong hồ nước mát mẻ và mênh mông giữa trời nắng nóng của mùa hè Melbourne. Bởi trong cuốn sách này, tôi tìm thấy nhiều ý tưởng tuyệt vời, giúp mình có thể trả lời cho hai câu hỏi rất hay của người bạn kia một cách rõ ràng, thuyết phục nhất
Cuộc đời của con người là gì?
Trả lời: Cuộc đời là cái quý báu nhất, không thể nghĩ bàn, mà Tạo hoá trao cho một con người trong thời gian của một đời người. Được làm người, với tấm lòng từ bi và trí tuệ sáng suốt nhất, mỗi người hãy sử dụng cuộc đời mình có ý nghĩa và xứng đáng nhất để đền ơn tạo hoá, đáp hiếu mẹ cha.
Đạo là gì?
Trả lời: Đạo là con đường dẫn ta đi tìm Sự thật và Chân lý của cuộc đời, bao gồm cả Vũ trụ, nhân sinh và Tâm trí con người. Con đường này rộng mở, bình đẳng cho tất cả mọi người, thuận theo lẽ tự nhiên mà đưa những hành giả đã phát nguyện lớn, tinh tấn, nhất tâm và luôn tỉnh táo đến mục đích tối hậu là giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.
Nghe qua như vậy, bạn bè tôi liền liên tưởng đến cuộc hành trình của các hành giả đi tìm báu vật.... Cứ như trong tiểu thuyết Tây du ký, Đường Tam Tạng cưỡi ngựa bạch cùng ba học trò đi vào vùng núi đồi hoang vu, qua trăm suối ngàn sông, xuyên bão giông, vượt nạn, hàng phục yêu ma để thỉnh kinh ở Tây phương vậy.
Nhưng nếu lắng lòng lại và ngẫm sâu một chút ta sẽ hiểu rộng và theo nghĩa trừu tượng hơn về đạo như con đường của Tâm linh, giúp chúng ta khai mở tâm trí để tự mình ngộ ra sự thật một cách rõ ràng và chân lý một cách sâu xa nhất.
Làm người ai cũng mong cầu hai chữ thành đạt và hạnh phúc, dù là họ hiểu hai chữ đó khác nhau đến như thế nào chăng nữa. Rất nhiều người có trí tuệ sẵn sàng bỏ biết bao thời gian, công sức cùng tâm trí và tiền bạc... để mong đến cuối đời mình, trước khi nhắm mắt xuôi tay, có thể mỉm cười nói với gia đình, bạn bè, người thân rằng, cuộc đời họ thật là thành đạt và hạnh phúc.
Nhưng hiểu thế nào cho đúng thành đạt và hạnh phúc chân thực ở cuộc đời này thì quả là không dễ dàng.
Đạo Phật dạy rằng, không phải khi con người đạt được mọi thứ mình mong muốn là ta đã có sự thành đạt hạnh phúc. Hạnh phúc chân thực chỉ đạt được khi ta được giải thoát khỏi mọi sự đau khổ phiền não trong tâm trí. Và chỉ khi thấy được sự thật và chân lý của cuộc đời, tức là giác ngộ, ta mới đạt được giải thoát hoàn toàn.
Đạo Phật là con đường luôn rộng mở, bình đẳng cho tất cả mọi người, thuận theo lẽ tự nhiên mà đưa những hành giả đã phát nguyện lớn, tinh tấn, nhất tâm và luôn tỉnh táo đến mục đích tối hậu cao quý. Tuy nhiên Đạo không tự nhiên đến với chúng ta, mà chính chúng ta phải tự mình phải "tầm sư học đạo" như các hành giả trong câu chuyện Tây du ký nói trên. Đạo là biển lớn, rộng mở chờ đón những hành giả trên vào lòng mình. Những giải cát mịn trên bờ biển là những Pháp môn giúp ta vào Đạo như Thiền, Tịnh độ, Mật... Hành trình trên đường Đạo chính là sự tu tập theo các Pháp môn đó.
Đạo Phật là biển lớn, chúng ta là những dòng sông. Chư tăng ni là những người khơi dòng giúp cho những dòng sông luôn đầy nước ngọt chảy hoà về biển cả bao la.
Dải cát mịn... đưa chân ta về biển,
Đứng mênh mông... luôn chung thủy đợi chờ,
Thả lên bờ... những phù du bèo bọt,
Nhận vào mình... nước ngọt mọi dòng sông.
Tình mặn mà... dù phong ba bão tố,
Chẳng đầy vơi... mặc ngày tháng năm dài,
Sâu đáy lòng... nuôi san hô ngọc quý,
Rộng cõi tâm... sinh dưỡng triệu muôn loài.
* * *
 
"Rồi vào năm ba mươi lăm tuổi, trong một đêm trăng tròn tháng Vesakha năm 589 trTL, Ngài đã ngồi thiền định dưới cội Bồ Đề trong khu rừng Ưu Lâu Tần Loa gần bờ sống Ni Liên Thiền (Neranjara).
Dùng sự trong sáng khác thường của tâm trí với trạng thái thiền sâu xa, sức mạnh trí tuệ được phát sinh trong trạng thái đó, ngài quán sát sự thật của tâm trí, vũ trụ và đời sống. Cuối cùng ngài đã đạt đến giác ngộ vô thượng và từ đó trở đi ngài được gọi là Phật (Buddha).
Sự giác ngộ của ngài là trí tuệ bao quát và sâu xa nhất, thông suốt thật tánh của tâm trí cũng như vạn vật. Sự giác ngộ này không phải là một sự mặc khải do một đấng thiêng liêng nào đó ban cho, mà là một sự khám phá chứng nghiệm của chính ngài, có nền móng từ những giai tầng thiền định sâu xa nhất.
Đạt đến giác ngộ có nghĩa là ngài đã giải thoát khỏi sự trói buộc của tham ái và vô minh, có nghĩa là ngài đã giải trừ được mọi hình thức đau khổ và đạt được an lạc vĩnh cửu".
* * *
Viết tới đây, bỗng trong tôi dâng trào một lòng trân quý vô bờ đối với đạo Phật, chư tổ và chư tăng ni, những người đã khai tâm cho tôi về Đạo và Đời:
Bình thường Tâm tức Đạo rồi,
Mây - bay theo gió, nước - trôi xuôi dòng.
Sống Đời cốt ở tấm lòng,
Từ bi, Trí huệ, thong dong tâm hồn.
Con xin cúi lạy đức Phật, vị đạo sư vĩ đại, đã chỉ dạy con đường chân lý cho chúng con đi tìm hạnh phúc viên mãn và chắc thật trong cuộc đời này.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Con người hơn nhau ở điểm nào. 

image
Con người chỉ hơn nhau ở đức hạnh, ở những phẩm chất tốt đẹp chứ không phải hơn nhau ở vật chất. Thật ra tiền chẳng ở với bạn được lâu đâu, vì một khi nó muốn từ bỏ bạn thì nó sẽ ra đi rất nhanh.
Có tiền là một chuyện, đặt tiền cho đúng chỗ lại là chuyện khác. Đầu tư không đúng nơi thì sẽ “tiền mất tật mang”. Thông minh cần phải đặt đúng chỗ thì mới thành công được.

Con người bây giờ gắn kết mình với quá nhiều thứ vật chất mà quên mất rằng sự gắn kết vĩ đại nhất là gắn kết với lương tâm thánh thiện.

Sự thông thái là món quà lớn nhất mà tự nhiên ban tặng cho loài người mà rất nhiều người đã không biết nhận lấy nó. Muốn có sự thông thái phải chịu khó học tập.

Càng trải nghiệm cuộc sống, ta sẽ càng ngộ ra được nhiều điều quý giá. Rồi bạn sẽ thấy: người được học nhiều khác xa so với người ít học. Chỉ có những người kém hiểu biết thì mới có tính khinh người thôi.

Trong tất cả cái khổ thì khổ nhất là cái khổ vì thiếu hiểu biết. Muốn trở thành người thông thái nhất, trước tiên bạn phải tự nhận mình là kẻ ngu ngơ nhất.

Rồi từ từ khắc phục những cái ngu của mình, bạn sẽ trở thành người thông thái nhất. Hãy nhớ là bạn chỉ khắc phục những cái ngu chứ bạn không bao giờ hết ngu, vì bạn cũng chỉ là một con người.

Khi giận dữ, chính bạn sẽ là người phải gánh chịu hậu quả đầu tiên. Tha thứ là một trong những đỉnh cao của sự vĩ đại. Trời cao, biển rộng đến mấy cũng không mênh mông bằng tâm hồn con người.

Thông thường, khi không có tiền thì người ta khổ vì nghèo. Khi có nhiều tiền, người ta lại khổ vì cái khác.

Bây giờ khó phân biệt thật giả lắm vì có những cái giả còn thật hơn cả cái thật. Tỉnh táo lắm thì mới nhận biết được.

Ai cũng có những góc khuất riêng trong tâm hồn mình. Chúng ta chỉ có thể ở hiện tại mà không thể ở quá khứ hay tương lai. Hiện tại là thời điểm thiêng liêng nhất.

Tôi thích sự trong sáng và tinh khiết của trẻ con. Cái vui của trẻ nhỏ rất hồn nhiên, dễ thương. Rất nhiều người đã nói rằng con cái là niềm vui, là hạnh phúc, là món quà lớn nhất mà họ có được.

Hãy nhớ rằng đứa bé chỉ có mặt trên đời khi trước đó có sự giao hợp giữa bố và mẹ. Điều đó cho thấy: niềm vui chỉ xuất hiện khi có từ hai tác nhân trở lên.

Bởi thế hãy biết chia sẻ tình cảm của mình ra xung quanh. Những người khư khư giữ lấy mọi thứ cho riêng mình là những người sai lầm.

Giai đoạn nuôi con thơ là giai đoạn mà ta phải đầu tư rất nhiều về chất dinh dưỡng và tình cảm.

Giống như trong quả trứng vịt lộn phải có cả lòng đỏ và lòng trắng để cung cấp chất dinh dưỡng cho “thai nhi vịt” nằm trong trứng. Vì cả thai nhi vịt, lòng đỏ và lòng trắng đều giàu chất dinh dưỡng nên người ta thích ăn trứng vịt lộn là vậy.

Một quả trứng phải được vịt mẹ ấp ủ thì mới nở thành vịt con. Điều đó chứng tỏ đứa trẻ nào cũng cần tình thương của người đời.

Những người được gọi là thầy đều đáng để ta đặc biệt tôn trọng: thầy thuốc, thầy giáo, thầy tu, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, linh mục, giáo hoàng, … Đạo đức của xã hội được vun đắp nên từ đó.

Con người ta hơn nhau ở đức hạnh, và những phẩm chất tốt đẹp.”HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Hãy quét dọn rác nhà mình cho sạch.

image
Đúng vậy, cái nhà mình giống như một cái phòng lớn chứa đầy những hoa thơm nhưng không ít bụi bặm, rác rưởi. Muốn nhà đẹp thơm thì phải quét dọn, lau chùi. Nhưng trước hết chủ nhân của căn nhà phải nhận diện rằng căn nhà mình không sạch, có thể bị dơ bởi nó tồn tại trong không gian chứa nhiều bụi bặm, đó là cái tâm của mình đó. 
Sống trên cuộc đời này chúng ta phải ý thức rõ về những hoạt động trong tâm mình. Đó là một pháp tu, gọi tên nhận diện sự thật. Đôi khi vì chủ quan hoặc vì không đủ trí tuệ để nhìn thấy sự thật tâm mình là “tâm viên ý mã”, tâm của chúng ta như con khỉ, con ngựa thích leo trèo, chạy nhảy... Khi tiếp xúc với cảnh trần thì tâm bắt đầu chuyển động theo lời khen, tiếng chê, thích và không thích bắt đầu hình thành một phản ứng, cứ thế được nuôi dưỡng, kéo dài gọi là dòng sông tâm thức. Khi các giác quan của mình tiếp xúc với đối tượng như: hương thơm, màu sắc, sự vật... thì tâm bắt đầu lăng xăng, với biểu hiện ban đầu là gợn sóng. Nếu mình không nhận diện được và không tỉnh thức thì có thể những gợn sóng ấy trở thành những đợt sóng xô bờ mạnh mẽ. Có lúc mình chẳng kiểm soát được tâm mình, bởi vậy những phút giây đó gọi là không chánh niệm, khi tiếp xúc với trần cảnh đã để cho nó tưởng tượng. Xây dựng kịch bản và diễn kịch trong căn nhà của mình với những vở kịch vô cùng hấp dẫn, ly kỳ đến khi phát hiện ra thì để lại không ít buồn vui, mừng giận cho chính bản thân mình và mọi người chung quanh. Tâm không thể dùng mắt thường để nhìn thấy, mọi người xung quanh cũng chẳng thể nhìn thấy được và cũng chẳng thể nhìn được họ. Nhưng cái tâm của mình rất đáng sợ nếu như mình không kiểm soát được thì nó điều khiển tay, chân, mắt, mũi, miệng, thân mình chạy theo ngũ dục của trần cảnh, và rồi chính bản thân mình sẽ nhận lấy hậu quả.
Vậy ta có thể quét dọn rác trong nhà mình bằng cách nhận diện nó đã từng bị bụi bẩn. Chắc chắn căn nhà ấy sẽ không dọn dẹp được khi tâm thức cháy lên đèn sân, thì tâm làm sao yên được. Muốn thanh lọc tâm, bằng cách thiền tập. Hãy để dòng sông tâm thức của chúng ta lắng đọng, đến khi những nhận biết về trần cảnh cứ liên tục phát triển một cách đúng đắn, tạm gọi đây là phương pháp lắng tâm. Sau khi quét dọn sạch sẽ nơi tâm rồi thì bắt đầu thêm một bước nữa là làm đẹp căn nhà tâm thức của mình. Đó là nghĩ một điều lành, điều thiện, làm được như thế căn bản là mình đã và đang sắp đặt tâm mình ngay ngắn lại. Đi đúng Chánh pháp để tiếp xúc với những giá trị cao thượng và đến một lần nữa chúng ta đã nhận diện sự thật về những yên lặng nơi tâm. Khi thấy tâm an bình thì phải phát tâm gìn giữ, thường làm và thật tinh chuyên. Cứ thế thì những nấc thang của sự chứng ngộ cao dần, đó là nhờ năng lượng của chánh niệm, là chìa khoá căn bản của trí tuệ và giải thoát.
Cái tâm đối với đời sống con người vô cùng quan trọng, nếu chúng ta biết lắng nghe, chăm sóc trọn vẹn, thì sẽ khám phá được rất nhiều cái hay, cái đẹp mà cuộc đời đã trao tặng. Do đó, muốn dọn dẹp nhà mình thật sạch, đó là trở về với tự thân và nhận diện sự thật, và điều kiện tất yếu là chuyển hoá tâm mình, đem lại an vui cho bản thân, cũng như xây dựng nếp sống cho cuộc đời tốt đẹp. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Nghiệp.

image
“Tôi làm chủ nghiệp của mình. Tôi kế thừa nghiệp. Sinh ra tôi đã mang nghiệp. Tôi và nghiệp tương quan lẫn nhau. Tôi sống theo sự dẫn dắt của nghiệp. Tôi tạo ra nghiệp gì, xấu hay tốt, tôi sẽ là người thọ lãnh sau nầy”. Đức Phật dạy rằng ta phải tự nhắc nhở mình như thế mỗi ngày. Những điều nầy quan trọng thế nào mà ta phải tâm niệm mỗi ngày như thế?
Karma có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật, nó đã được dùng với nghĩa như thế. ‘Karma Yoga’ có nghĩa là Yoga của hành động. Nhưng Đức Phật nói: “Karma, hỡi các vị tỳ kheo, ta nói là, sự chủ tâm”. Karma không chỉ bất cứ hành động nào, nhưng chỉ vào sự chủ tâm ở sau mỗi hành động. Không chỉ sự chủ tâm khi hành động mà cả trong lúc nghĩ suy, nói năng. Một cách lý thuyết, nếu ta dùng từ Karma để chỉ hành động, và kết quả của hành động, là không đúng, nhưng vì đã được sử dụng quá lâu theo nghĩa đó, người ta khó thể hiểu Karma một cách khác hơn.
Hành động ta làm với sự chủ tâm thì rất khác với hành động vô tâm. Nếu ta vô ý dẩm chết một con kiến, thì đó không phải là nghiệp sát sanh, dầu ta có thiếu chánh niệm. Vì không có sự cố ý, chủ tâm sau hành động đó. Nhưng nếu có một ổ kiến trong vườn, và ta muốn dẹp sạch nó bằng cách xịt thuốc lên ổ kiến, cố ý giết chúng càng nhiều càng tốt, thì đó là ta đã tạo nghiệp sát sanh vì đã có sự chủ tâm đằng sau hành động đó. 
Bất cứ điều gì ta làm với chủ tâm đều mang lại hậu quả, do ta đã có sự suy nghĩ về chúng trước khi hành động Vì thế ta nên cảnh giác với mọi tư tưởng của mình. Đó là điều ta có thể luyện tập khi thamï thiền. Phải biết rõ quá trình tư duy của mình, mới mong tạo ra nghiệp thiện, nếu không ta chỉ hành động mà không có sự chủ tâm, cố ý. Khi ta biết tâm, tư tưởng của chính mình, ta có thể sửa đổi chúng cho tốt hơn, theo một hướng đúng hơn, theo hướng để tạo ra nghiệp thiện.
Người ta thường nói: “Tôi tạo ra nghiệp thiện để khi tái sinh tôi được đẹp đẽ hơn”. Đó là một sự trao đổi đó có tính cách thương mại. Làm một cái gì đó để đổi lấy một cái khác. Dầu có tốt hơn so với hành động theo bản năng, thiếu chủ tâm, nhưng cũng khó đem lại cho ta kết quả tốt đẹp hơn vì phương cách đó đầy ngã chấp.
Hành động thiện cần được làm trong sự sáng suốt, biết rằng nếu không làm thế, ta chỉ đem lại đau khổ cho chính mình. Tâm thiện là điều tiên quyết giúp ta sống an bình, hoà nhịp với chính ta, với tha nhân. Nghĩ đến kết quả là có sự chờ đợi, mong mỏi, bám víu. Tất cả những mong mỏi chỉ mang đến sự thất vọng. Không có sự mong mỏi nào trở thành hiện thực như ta đã mong muốn. Sự mong mỏi dẫn ta đến tương lai hơn là trụ ở giờ phút hiện tại. Kiếp sau, hay kiếp sau nữa, hay sau sau nửa, kiếp nào? Năm phút tới thì sao? Hành động thiện đúng ra phải được làm với tất cả tâm hồn đến nổi không còn có thể nghĩ đến gì khác nửa. Nhưng nếu như có điều gì khác nửa chen vào, lúc đó trí tuệ sẽ bảo cho ta cách chọn lựa đúng.
Khi hai người cùng làm một hành động, họ sẽ không có cùng một nghiệp quả. Đức Phật so sánh việc tạo nghiệp ác của hai người với bỏ một muổng muối vào ly nước hay bỏ xuống sông Hằng. Ly nước muối sẽ không uống được, nhưng nước sông Hằng có gì thay đổi đâu. Cũng thế, với người có cả một dòng ‘sông thiện’ thì một hành động sai quấy cũng không ảnh hưởng nhiều. Nhưng nếu ta chỉ có một ‘ly nước phúc’ thì chỉ một hành động sai quấy cũng đủ làm cay đắng cả cuộc đời. Vì ta không biết mình đã tạo tác ra những gì ở các kiếp trước, tốt hơn hết là giả thuyết rằng phúc của ta chỉ đầy một ly nước. Đôi khi ta thường tự hỏi tại sao có những người làm bao điều ác mà vẫn sống hạnh phúc. Gia đình, tiền bạc, sức khỏe đều tốt lành. Tại sao họ không bị trừng phạt? Họ chưa bị trừng phạt đó thôi. Họ sẽ lãnh những hậu quả của việc họ làm. Không có gì gọi là tai nạn hay may rủi. Không có gì xảy ra ngẩu nhiên trong vũ trụ nầy. Trăng, sao, mặt trời - mọi việc đều đi theo một định luật, trái đất ta đang sống cũng thế. Nghiệp của ta cũng thế.
Nghiệp không phân biệt, ta nên nhớ điều đó. Nó không biết thiên vị ai. Nó là nhân quả. Nó không để ý đến người hành động. Những gì đã được giữ trong dòng sông nhân, sẽ ở đó và sẽ tựu quả khi ‘chín mùi’. 
Ta mang theo một số ‘thói quen’ từ trong những kiếp sống trước, nhưng phần lớn những gì xảy ra cho chúng ta đều là quả của các hành động trong đời sống hiện tại. Ta không cần phải nghĩ: “À, có lẻ đó là kết quả những việc tôi đã làm hai, ba kiếp về trước”, hay “Nếu tôi làm như thế, kiếp sau tôi sẽ được an toàn”. Suy nghĩ như thế là trốn tránh trách nhiệm. Nếu ta có trách nhiệm với chính mình thì chắc là ta sẽ nhớ lại ta đã làm gì đó hay đã bỏ qua không làm gì đó; ngay trong chính cuộc đời nầy để đưa đến những kết quả như ngày hôm nay, như ngay hiện tại nầy.
Ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương quan. Bất cứ hành động khéo léo, tốt đẹp nào ta đã làm trong đời sống hiện tại, cũng cho ta kết quả. Chúng tiềm ẩn trong khả năng, sức mạnh, sức khoẻ, cá tính của ta. Chúng ta là người tạo ra số phận của mình. Không ai có thể thực sự làm gì cho ta được. Nếu ta còn tin rằng ai đó có thể hành động thay ta, thì ta đã không hiểu ý nghĩa của câu: “Tôi làm chủ nghiệp của tôi”. Nghiệp là thứ duy nhất ta có thể sở hữu. Mọi thứ khác đều là vay mượn. Ta sẽ không mang theo được gì trừ nghiệp. Mọi thứ khác kẻ hậu sinh ta sẽ thừa hưởng. Chỉ có nghiệp là của ta. 
Khi tái sinh, ta mang theo các nghiệp duyên, và chính nghiệp duyên tạo ra các hoàn cảnh, cơ hội cho ta. Ta có sự lựa chọn, nhưng không phải là tuyệt đối. Tất cả chúng ta đều có sự lựa chọn là có nên đến thiền viện không. Khi bạn đã chọn có mặt ở nơi đó, bạn đã tạo một nghiệp lành. Khi nghe Pháp, bạn có sự chọn lựa hoặc là nghe mơ mơ màng màng hay nghe với cả tâm hồn. Khi đã dốc tâm nghe, bạn có lựa chọn là quên liền sau đó hay cố gắng lưu giữ lại. Và nếu có giữ, bạn sẽ giữ bằng cách luôn thực hành chúng hay chỉ nhớ vì chúng lý thú. Khi đã chọn sống theo Pháp, bạn lại có thể hoặc chọn luôn sống như thế hay chỉ khi có dịp, có hoàn cảnh thuận tiện.
Có được sự lựa chọn không ngừng nghĩ, từng giây phút là quyền của chúng ta. Mỗi giây phút, trừ lúc ngủ, là mỗi phút giây tạo nghiệp. Đó là lý do tại sao chúng ta cần hoàn chỉnh nghệ thuật sống của mình từng giây phút một. Nếu ta không canh chừng từng giây phút tạo nghiệp của mình, thì nó khó tạo ra nhiều điều có lợi cho chúng ta. Có bao nhiêu giây phút tội lổi có thể xảy ra. Vì thế tâm cần phải được canh giữ từng giây từng phút vì đó là những giây phút có sự lựa chọn, những giây phút của nghiệp. Ta càng có những sự chọn lựa khôn ngoan, khéo léo, ta càng tạo ra nhiều cơ hội tốt cho mình. Giống như sống trong một ngôi nhà có nhiều cửa chính, cửa sổ, ta sẽ có bấy nhiêu cánh cửa để chọn lựa khi cần ra khỏi nhà. Nếu ta cứ tiếp tục có những chọn lựa sai lầm, thì cơ hội của ta sẽ giảm dần cho đến khi ta tỉnh dậy trong lao tù, nơi cơ hội đã ở đằng sau cánh cửa của sự lựa chọn. Lúc ấy, ta sẽ chẳng có sự lựa chọn nào cho đến khi được giải thoát. Đôi khi ta tự hỏi sao người khác hình như có nhiều chọn lựa để làm bao công việc thú vị, trong khi ta chẳng có chọn lựa nào cả, thì đó là vì các nghiệp ta đã tạo ra.
Đức Phật nói có những người sanh ra trong ánh sáng và đi về phía ánh sáng. Có người sanh ra trong ánh sáng, để đi vào bóng tối. Có người sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng. Và cuối cùng là có những người sanh ra trong bóng tối, để tiếp tục đi trong bóng tối. Điều đó có nghĩa là, dầu ta được sanh ra trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta vẫn có nhiều cơ hội để lựa chọn. 
Có một phụ nữ tên là Helen Keller khi sinh ra bị điếc, câm và mù. Vậy mà bà vẫn học hành, viết sách và chỉ dạy những người khuyết tật khác sống tốt hơn. Rõ ràng là bà đã sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng. 
Tất cả chúng ta trong mỗi giây phút đều có một cơ hội đến với mình. Nếu ta để lỡ mất cơ hội đó, có thể ta sẽ chẳng bao giờ có một cơ hội thứ hai như thế nữa. Vì khi ta đánh mất một cơ hội, cũng giống như ta đã khóa bớt một cánh cửa của căn nhà cuộc đời ta lại. Do đó hoàn toàn chú tâm cho từng giây phút là một việc làm cần thiết.
Đức Phật cũng ví nghiệp giống như một ổ nhện giăng, một ổ nhện đã được bện quá khéo léo đến nổi ta không biết đâu là sợi nhện đầu tiên đâu là sợi cuối. Chúng ta không thể biết nếu mình bịnh hôm nay là do đã làm việc gì đó không tốt mười lăm năm về trước hay vì ta đã không để ý đến vấn đề ăn uống hôm qua. Nhân quả của ta cũng là những sợi dây nhện đan chéo nhau đến nổi ta không biết rõ ràng tại sao sự việc xảy ra thế nầy, thế nọ. Tuy nhiên ta có thể hiểu lý do của những việc quan trọng xảy ra trong đời ta. Ta có thể dễ dàng nhớ lại những lựa chọn sai lầm vì dễ dãi với chính mình, và hậu quả của chúng gây ra. 
Nghiệp đến từ quá khứ hay sẽ xảy ra trong tương lai không quan trọng, vì quá khứ giống như một giấc mộng còn tương lai thì chưa đến. Việc ta nên quan tâm là ngay giờ phút hiện tại. Còn lại tất cả chỉ là một giấc mộng, trong đó ta không biết mình tỉnh hay mê, không biết việc gì đang xảy ra. Không có gì vui thích trong một cuộc sống như thế khi thực tại như phủ một lớp sương mùø. Tất cả chúng ta khi chưa giác ngộ thì còn sống trong lớp sương mù đó, nhưng ta có thể thức tĩnh mình ra khỏi giấc mơ đó. Thực ra có giây phút nào khác hơn là giây phút hiện tại. Ta không thể sống lại trong quá khứ hay kinh nghiệm trước tương lai. Chỉ có một việc duy nhất ta có thể làm là: Sống cho giây phút nầy. Để làm được thế, ta phải hoàn toàn tỉnh thức, nhận biết. Tỉnh thức và nhận biết về chủ tâm của ta.
Tâm là chủ. Không có gì có thể hiện hữu nếu không do tâm tạo ra. Tâm là động lực tiềm ẩn của bao nghiệp ta tạo ra. Ta có ba cửa ngỏ: tư duy, ngữ và hành (thân, khẩu, ý). Đây là ba cửa đưa ta đến sự tạo ra nghiệp, và ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua ba cửa nầy.
Dầu rằng tư duy là động lực tiềm ẩn, nó tạo ra nghiệp nhẹ nhất nếu không thể hiện ra bằng lời nói hay hành động. Thí dụ như ta thù ghét ai, và một tư tưởng loé qua đầu: “Nếu hắn đến gần ta nữa, ta sẽ giết hắn”, nhưng ta không nói gì hay làm gì. Dầu đó là một tư tưởng xấu, tạo ra nghiệp ác, nhưng vì không có hành động cụ thể, nên nghiệp báo cũng nhẹ. Nhưng nếu ta cứ tiếp tục suy nghĩ như thế, nó sẽ tạo thành thói quen dẫn đến thốt ra lời nói. Nếu kẻ ta ghét đến gần, ta thực sự nói: “Nếu anh đến gần tôi, tôi sẽ giết anh”, thì nghiệp sẽ nặng hơn. Trước mắt là ta sẽ tạo ra kẻ thù, và ta đã củng cố tư tưởng xấu bằng lời nói. Và nếu cứ tiếp tục nói lời ác đó, nó sẽ dẫn ta đến hành động. Lúc đó nghiệp báo thật nặng nề và mang lại bao hậu quả thảm khốc. Ý nghĩ, tư tưởng cần phải được canh giữ và sửa đổi nếu cần. Nếu một tư tưởng xấu dấy lên, tốt nhất giữ đừng cho nó biến thành lời nói hay hành động...HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Tính thiết yếu của giới luật.

image
Đạo Phật sở dĩ được quảng bá và truyền thừa lâu dài trên thế gian này, thật ra không chỉ vì tự nó chứa đựng một kho tàng đồ sộ: giáo lý cao thâm-văn học luận lý như nhiều người thường nhận định, mà điều tiên quyết và thiết yếu chính là Giới luật.
Chính nhờ Vinayà-Pitaka này, hành nhân làm nền tảng cho bất kỳ tiến trình thánh thiện hoá tư duy: tu tập thiền định, trí tuệ nào. Thế mới biết tại sao đức Thích Tôn đặc biệt chú trọng nhắc lại nhiều lần trong hơn 40 năm hoằng hoá lợi sinh của Ngài. Câu nói sấm sét lúc Phật sắp nhập Niết bàn hẳn khó phai mờ trong tiềm thức bao người con Phật: “Giới luật còn, Phật pháp còn; Giới luật mất, Phật pháp mất”.
Ngày nay, trong bối cảnh xã hội xao động, từng bước chuyển mình tương thích với sự phát triển và trỗi nhịp của văn minh thời đại, Phật giáo, một tôn giáo được xem là “chân lý thực tại”, phải làm gì để minh định bản sắc và giá trị đích thực của chính nó? Đây là việc ưu tư nhất của các bậc cao tăng kỳ túc nói riêng, giới học Phật nói chung.
Trải qua nhiều thời kỳ, có nhiều vấn đề được đưa ra bàn thảo, nhưng, Giới luật vẫn là tiên đề. Vì sao như vậy? Vì rằng: nó có thể đem lại sự hưng hay phế cho cộng đồng Tăng chúng, quyết định cho sự tồn vong của Phật giáo. Vấn đề đặt ra không chỉ giải minh trên bình diện lý luận văn chương, mà thực sự chúng ta phải tư duy, xác quyết và trải nghiệm thế nào để mỗi thành viên Tăng trong từng tự viện, tịnh xá, tịnh thất…từng bước hoàn thiện nhân cách phẩm hạnh cho chính bản thân mình nhằm đem lại đời sống an lạc hiện tại, giải thoát tương lai.
Giới luật(Siksapada) nguyên nghĩa là sự điều phục, chế ngự…tất cả các pháp làm chướng ngại thánh đạo. Nói theo quan hệ khởi nguyên, nó là sự gắn liền với đời sống Tăng thân, phi điều này đều được xem là mất gốc cho dù chúng ta: “đường đường Tăng tướng, dung mạo khả quan”. Khi tham cứu hoặc hành trì Giới luật, chúng ta không nên nhận thức và kết luận một cách vội vàng rằng: nó tiêu cực hay tích cực, tiểu thừa hay đại thừa, bởi nó không thuộc phạm trù riêng biệt cho bất kỳ hệ thống tư tưởng nào của Phật giáo. Bản chất nó không mang đậm tính bắt buộc, mà là tiêu điểm cho sự tự nguyện của những ai học Phật muốn đi trên lộ trình: gạn lọc thân tâm, trau giồi nhân cách, hoàn thiện đạo hạnh chính mình. Dù chúng ta thuộc tông phái nào, hệ thống truyền thừa nào thì vấn đề trước tiên vẫn là trang nghiêm thân giáo cho chính mình bằng phương pháp hành trì Giới luật. Đừng bao giờ có ý niệm nhận định sai lầm khi chúng ta "KIẾN VĂN" một số điển tích, hành trạng dị biệt hoặc "NGHỊCH HẠNH" của các vị Bồ tát, Tổ sư, Thiền sư…rồi cho rằng: việc “kiến tánh ngộ đạo” không dính dáng gì đến Giới luật, mà chúng ta phải hiểu là các Ngài hành trì Giới luật đến độ không cần hành trì nữa. Mặc khác, Giới luật Phật giáo là Pháp điển đạo đức chuẩn mực cho Tăng nhân. Không nên xem nó như Pháp luật ở đời. Nói như Thượng toạ Nguyên Chứng:”Giới luật không đồng và không theo một mô típ nào như Pháp luật đời thường, tuy vậy, nó không chống trái mà thực sự đi sâu hơn, nó mang tính phổ quát được xuất phát từ đại bi và trí huệ”.
Khi khảo sát về tính hiện thực tương phù hoặc bất tương phù của từng giới trong 250 giới cho tỳ kheo, 348 giới cho tỳ kheo ni (đơn cử Luật Tứ Phần), chúng ta phải biết điều quan trọng là: Giới luật dĩ nhiên được xem như nấc thang cho muôn ngàn "thánh hạnh", dù vậy, nó không phải định pháp, nghĩa là có thể thay đổi. Điểm này, trong thánh điển ghi rõ: đức Thích Tôn cho phép bỏ một số điều nhỏ nhặt sau khi Ngài niết bàn. Nhưng trên thực tế, lịch sử Phật giáo chưa ai bỏ đi điều gì dù là giới điều nhỏ nhặt. Hiện tại, chúng ta có thể hoặc không thể hành trì giới điều nào đó trong Giới luật, tuy nhiên tất cả đều có giá trị và ý nghĩa của nó.Tôi thật sự giật mình và tri ân khi nghe Thượng toạ Nguyên Chứng nói về ý nghĩa sâu xa của giới: không được cầm lông dê (…). Vì vậy, ngày nay cho dù có những Giới luật không còn thích ứng cho sự hành trì, nhưng mãi mãi nó vẫn còn giá trị biểu trưng, là thư tịch cho chúng ta y cứ tham khảo. Chính vì sự bảo lưu nó có tầm quan trọng như vậy, nên trải qua nhiều thời kỳ, Giới luật được hành trì trong nhiều tông môn Phật giáo tại nhiều quốc gia khác nhau vẫn giữ được bản nguyên của nó.
Là Tăng sĩ việc “thượng cầu hạ hoá”, đưa đạo Phật vào đời là hoài bão, song, việc dụng tâm giữ gìn phạm hạnh, không bị đồng hoá bởi thế tục là điều luôn luôn canh cánh bên lòng. Hai chữ “tuỳ duyên” được chúng ta thực hiện sao cho nó có ý nghĩa tích cực: “tuỳ thuận chúng sinh, dĩ văn tải đạo”, đừng để nó biểu thị theo nghĩa: “phan duyên trần cảnh, ô nhiễm thân tâm”.
Tôi hy vọng là một ngày không xa, một bộ đạo luật ra đời làm định chế cho sự sinh hoạt và tu học cho cộng đồng Tăng lữ đảm bảo 3 yếu tố quan trọng:
1. Giữ gìn tính chất truyền thống bản nguyên của Giới luật.
2. Phù hợp với đời sống tu tập của người Tăng sĩ trong thời hiện đại.
3. Hướng tới thánh thiện hoá thân tâm: an lạc hiện tại, giải thoát tương lai.
Ước nguyện chân thật như vậy có được xiển dương hay không chính là ở mỗi chúng ta.
Tự mình làm điều ác làm
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình ác không làm
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai.
(Pháp cú 165)
Tất cả chỉ còn trông chờ vào sự tự giác của những người được xem là “Thừa Như lai sứ, hành Như lai sự”.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Thursday 10 April 2014

Tu có nghĩa là sửa, tại gia có nghĩa là ở nhà. Tu tại gia là tu sửa bản thân ngay tại nhà của mình. Người cư sĩ Phật tử sống đời thế tục với các trách nhiệm gia đình và xã hội nhưng nguyện sửa đổi, chuyển hóa tâm tánh, ngôn ngữ, hành vi của mình theo lời Phật dạy chính là tu tại gia.
 Tịnh Danh cư sĩ.
Nói chung, người Phật tử sau khi quy y Tam bảo và phát nguyện thọ trì năm giới là đã bắt đầu lộ trình tu tập tại gia. Thời khắc quy y đánh dấu sự thay đổi rất rõ ràng trong nhận thức và hành động, mọi việc của người Phật tử lúc này đều nương tựa vào Tam bảo, theo sự soi sáng của Phật-Pháp-Tăng. Sau đó, người Phật tử trau dồi nhân cách đạo đức bằng việc giữ năm giới, phát tâm ăn chay (một tháng ít nhất là hai ngày), làm các việc thiện trong khả năng có thể để vun bồi phước đức. Quan trọng hơn là tìm học giáo lý, tin hiểu đúng lời Phật dạy rồi ứng dụng trong đời sống thực tiễn hàng ngày. Sống đạo đức (có giới), tâm luôn an tịnh thảnh thơi (có định), sáng suốt không mê lầm (có tuệ) là những phẩm hạnh căn bản mà người tu tại gia luôn hướng đến và thành tựu.
Ngoài ra, cụm từ tu tại gia còn để chỉ cho một số ít cư sĩ phát tâm tu tập tinh chuyên hơn các Phật tử bình thường. Dù vẫn ở nhà, nhưng những cư sĩ này thường phát tâm ăn chay trường, khá nhiều vị thọ giới Bồ-tát, công phu tu niệm và lễ bái với thời khóa y như người xuất gia vậy.
Mỗi ngày bạn đã biết niệm Phật, mỗi tháng có mấy ngày ăn chay và lễ Phật, như vậy có thể gọi là tu rồi. Vì như đã nói, tu chính là sửa. Sửa được càng nhiều những hạn chế của bản thân thì sự tu của mình càng cao và phước đức nhờ đó cũng tăng tiến hơn lên.
Ai trong quá khứ cũng đều có sai lầm. Muốn hướng thiện, trước hết phải nhận ra đó là lầm lỗi rồi thành tâm sám hối, ăn năn về việc đã qua, nguyện không tái phạm nữa. Tiếp đến là nương theo Phật pháp để sống thiện lành. Nguyện nương tựa Tam bảo, sống và tu học đúng với phẩm hạnh của người cư sĩ Phật tử thuần thành chính là sự quay đầu hướng thiện đúng đắn nhất.
Quay đầu là bờ! Biết quay đầu hướng thiện vào bất cứ thời khắc nào trong đời cũng là sớm, không hề muộn. Bởi đời sống luôn được tiếp nối, cuộc đời chúng ta chỉ là một mắt xích trong chuỗi tiếp nối ấy mà thôi. Do vậy, không hề có chuyện “quá muộn” trong việc tỉnh thức để quay đầu hướng thiện.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.10/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Áo cà sa tượng trưng cho Đạo pháp.
Chiếc áo cà sa (pháp phục) được xuất hiện sau khi đức Phật thành đạo, Tăng đoàn bắt đầu được thành lập và theo như kinh sách tiếng Hán, áo cà sa còn gọi là Cát triệt y hay Điền tướng y, là những mảnh vải vụn nhặt được ở bãi tha ma, tượng trưng cho những gì tầm thường nhất và cũng để nhắc nhở người xuất gia cần có một đời sống khiêm tốn và đơn sơ nhất.
Các sư tăng Phật giáo Nguyên thuỷ cho đến nay vẫn mặc bộ cà sa do đức Phật chế ra.
Người xuất gia khoác lên người áo cà sa để giúp họ tự giữ giới, nhắc nhở họ không được tà dâm, sát sinh, trộm cắp, không sân si, bám níu. Chiếc áo ấy đem đến sự an lạc cho họ, giúp họ phát lộ lòng từ bi, làm gia tăng trong tâm thức họ sự can đảm, tinh tấn, sức mạnh và trí tuệ.
Mặt khác áo cà sa còn gây nhiều sự chú ý của giới nghệ thuật, đã đi vào văn học dân gian, in đậm vào văn hoá và tư tưởng con người. Người xuất gia mặc áo này trông trang nghiêm và dễ mến, kể cả nếp nhăn hoặc nếp rũ trên cà sa.
“Những ai đã Giác ngộ đều tôn kính chiếc áo cà sa, tin tưởng nơi chiếc áo đó. Họ xem đó là chiếc áo của giải thoát, một cánh đồng của phúc hạnh, một mảnh áo vô tướng, mảnh áo của Như Lai, mảnh áo của sự Giác Ngộ hoàn toàn, hoàn hảo và không có gì so sánh được” - Đạo Nguyện, đại thiền sư người Nhật nhấn mạnh.
Trong kinh Pháp Hoa, áo cà sa còn là biểu tượng của hạnh khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục và trong Phật giáo những biểu tượng ấy có liên hệ mật thiết với tinh thần bình đẳng, tin chắc rằng mọi chúng sinh đều có Phật tính và khả năng thành Phật. Đó là tâm từ, là hạnh thành Phật.
Ngày nay, mặc dù tùy theo truyền thống của từng học phái, địa phương, phong tục, khí hậu… mà chiếc áo cà sa cũng biến dạng đi, từ cách may cho đến màu sắc nhưng những biến đổi đó vẫn luôn luôn giữ được truyền thống và phong cách hàng ngàn năm của Phật giáo. Tất cả đều không đi ra ngoài đạo pháp.
Bình bát là bảo vật truyền thừa của chư Phật
Trong kinh Phật bổn hạnh có nói: Khi đức Phật còn tại thế, có hai thương gia là Đế Ly Phú Bà và Bạt Ly Ca đều ở phía bắc Ấn Độ. Hai vị này, một hôm đem sữa cúng dường đức Phật nhưng đức Phật không có đồ đựng.
 Bình bát - bảo vật truyền thừa của chư Phật.
Lúc bấy giờ có bốn vị thiên vương đem bốn cái bát bằng vàng đến dâng cúng đức Phật để đựng sữa, Ngài không nhận. Bốn vị Thiên Vương ấy lại trở về đem bốn cái bát khác bằng những thứ quý: ngọc, ngà, xa cừ... để dâng cúng đức Phật, Ngài cũng không nhận. Sau cùng bốn vị ấy đem dâng cúng bốn cái bình bát khác bằng đá, đức Phật rất hoan hỷ.
Theo tiếng Phạn thì bình bát gọi là Bát Đa La (người Trung Quốc dịch là Ứng lượng khí) nghĩa là đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người.
Bình bát chỉ được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi thấm nước, chứ không được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý... Nếu dùng bằng kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của bậc xuất gia. Và thông thường túi đựng bình bát bằng vải, cùng màu với màu y.
Ở các nước Tiểu thừa Phật giáo, chư Tăng thường đi khất thực nên thường dùng bình bát. Các nước theo Đại thừa Phật giáo thì không đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba tháng kiết đông nữa.
Đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm cúng dường trai tăng (thực phẩm và những vật dụng cần thiết) thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai. Sau khi các vị đã đắc giới, chư giới sư trao truyền bình bát và bắt đầu trì bình (ôm bát đi khất thực) từ đó.
Mỗi lần đi khất thực, tay nâng bình bát đang còn trống không, đức Phật dạy đệ tử của Ngài không phiền muộn, không lo lắng mà phải an tịnh và nhận đồ cúng dường với tâm bình đẳng.
“Pháp phục và bình bát là tài sản thiêng liêng, quý báu của người hành Đạo. Vì nó là phương tiện giúp cho Tỳ Kheo an ổn trong sinh hoạt hằng ngày và phòng hộ thân tránh tham đắm dục lạc. Khi còn tại thế đức Phật vẫn luôn nhắc nhở, khuyến khích các Tỳ Kheo hãy thường giữ bên mình 3 y và 1 bình bát. Đó là Pháp phục truyền thống của ba đời chư Phật” - Theo giáo lý của đức Phật.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.10/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Đức Phật tuy là một vị Thái Tử nước Ấn Độ nhưng đối với phú quí thế gian Ngài lại sinh lòng nhàm chán rất sâu đậm, nên Ngài muốn bỏ ngôi vua để xuất gia tu Đạo. Ngài cũng muốn là cho tất cả chúng sinh biết rằng tất cả mọi pháp của thế gian đều là vọng tưởng.
Thế giới này do đâu mà thành? Là do vọng tưởng của chúng sinh tạo thành và trong tương lai thì cũng sẽ do vọng tưởng của chúng sinh mà tiêu hoại, cho nên có câu: Như thị nhân, như thị quả (Hễ có nhân thì có quả).
 

Ở trên thế gian, mọi thứ đều là vô thường biến loạn. Bồ Tát nhàm chán pháp thế gian, Phật lại càng xa lánh pháp thế gian hơn nữa. Ngài không sinh lòng nhiễm ô chấp trước pháp đó. Ngài vĩnh viễn đoạn tuyệt lòng tham ái, dục vọng thế gian. Điều mà người đời tham thì Phật không tham, điều mà người đời ưa thích thì Phật không ưa thích, bởi vì Ngài không có tham ái cho nên Ngài không có phiền não.
Phiền não mà chúng ta có bây giờ là do đâu mà sinh ra? Là do tham với ái sinh ra! Nếu mình không tham thì không có lòng ích kỷ, nếu không có lòng ích kỷ thì mình không có phiền não.
Tại sao phải tham? Tại vì mình bị dục niệm chi phối, khiến cho mình phát sinh ra lòng tham ái mà không thể nào thỏa mãn được thì sẽ sinh ra phiền não; có phiền não thì có điên đảo; có điên đảo thì có ô nhiễm. Bây giờ mình tu hạnh thanh tịnh tức là phải làm sao để diệt trừ tất cả mọi thứ ô nhiễm.
Phật lúc nào cũng tìm cách làm lợi ích cho chúng sinh. Lúc ở trong Vương cung thì Phật không tham trước mọi thứ vinh hoa phú quí; lúc xuất gia thì Ngài dẹp bỏ hết những oai nghi của người thế tục, không cùng người khác đấu tranh biện luận, cho nên Ngài đắc được Vô Tranh Tam Muội :
Tranh thị thắng phụ tâm,
Dữ Đạo tương vi bội,
Tiện sinh tứ tướng tâm,
Như hà đắc “Tam Muội ?“.
Dịch là :
Tranh là tâm hơn thua,
Đi ngược lại với Đạo,
Khiến sinh ra bốn tướng;
Làm sao được “Tam Muội“.
Phật an trụ nơi pháp Không Tranh. Ngài hoàn thành hạnh nguyện đã lập khi xưa, đầy đủ vô lượng công đức. Ngài dùng quang minh của Đại Trí huệ để diệt trừ tất cả si mê trên thế gian, phá tan tất cả những sự đen tối vô minh. Ngài là phước điền vô thượng của chúng sinh ở thế gian, lúc nào cũng vì chúng sinh mà tán thán công đức của mười phương ba đời chư Phật, khiến chúng sinh được trồng phước, cầu huệ và vun bồi tất cả thiện căn nơi Tam Bảo. Phật dùng con mắt trí huệ thấy được tất cả đạo lý chân thật, rồi lại vì chúng sinh mà tán thán công đức xuất gia.
“Xuất gia“ là xuất “Tam giới gia“ (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) và cũng là xuất Thế tục gia. “Thế tục gia“ là nhà của người đời, ra khỏi nhà người rồi tức là mình không còn quan niệm như người đời nữa.
“Xuất gia“ cũng có nghĩa là xuất Phiền não gia. Chúng ta, mỗi người trên thế gian này, đều đang ở trong cái nhà phiền não. Khi nóng giận thì mình cảm thấy rằng ăn bất cứ món ngon vật lạ nào cũng đều không có mùi vị gì cả, cho nên khi mình xuất gia là muốn xuất ra khỏi nhà phiền não.
“Xuất gia“ còn có nghĩa là xuất Vô minh gia. “Vô minh“ tức là không có hiểu biết rõ ràng, chuyện gì cũng không thấu suốt, làm chuyện gì cũng điên đảo cả. Do đó phải ra khỏi cái nhà vô minh.
Xuất gia cũng có nhiều động cơ khác nhau. Như ở Trung Hoa, có nhiều người vì lớn tuổi rồi mà không có thân thích để nhờ cậy, cho nên họ xuất gia để về sau có người săn sóc cho dễ dàng. Có kẻ vì hoàn cảnh bức bách nên xuất gia; hoặc vì phạm pháp, giết người nên muốn đổi danh đổi tánh, đổi mặt đổi mày, làm người xuất gia để luật vua không tầm nữa. Có kẻ thì vì khó nuôi nên gia đình quyết định đem cho nhà chùa. Đó là ba loại người xuất gia, có tu hành được hay không thì chưa biết; có thể họ tu được, mà có thể họ chẳng tu được!
Lại có kẻ chân chánh vì vấn đề sinh tử, phát tâm Bồ đề mà xuất gia. Hạng xuất gia như vậy nếu họ không bao giờ thối tâm thì đúng là chân chánh tu hành. Họ vì đau khổ nghĩ đến vấn đề sinh tử mà phát tâm đại Bồ đề, y chiếu theo lời Phật dạy mà tu hành.
Cho nên xuất gia có nhiều tâm trạng và hoàn cảnh khác nhau. Song, sau khi xuất gia rồi thì đừng có phạm lỗi lầm mà phải trở nên thanh tịnh, xa lìa mọi tội lỗi, khôi phục lại tâm thanh tịnh bản hữu của chính mình, vĩnh viễn ra khỏi nhà Tam giới, ra khỏi nhà phiền não, ra khỏi nhà vô minh, ra khỏi nhà thế tục.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.10/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Chúng ta học ứng dụng những lời Phật dạy trong đời sống hàng ngày của mình.
Tu là chuyển hóa bản thân, từ vô minh đến trí tuệ, là tìm kiếm, khám phá con đường đưa đến hạnh phúc và an lạc. Cho nên ông bà mình có câu “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Tu là cõi phúc vì mình đang tìm đường vượt cõi phiền não, khổ đau đến cõi phúc lạc, tự tại.
 nói về pháp tu của một người đệ tử tại gia như sau: “Xá Lợi Phất, thầy nên ghi nhớ rằng một người đệ tử áo trắng nếu thực tập được năm giới pháp và tu tập bốn tâm cao đẹp là đã chấm dứt được sự sa đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các đường dữ khác, đã chứng đạt được quả vị Tu-đà-hoàn, không còn thối đọa vào các ác pháp. Người ấy chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác và chỉ cần qua lại tối đa là bảy lần nữa trong các cõi trời và người là có thể đạt tới biên giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ”. Như vậy, đi tu là đi tìm, khám phá một phương pháp hành trì để chuyển hóa tâm linh và con người mình.
 “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”.  Ảnh minh họa.
Nhưng nếu tu không khéo có thể là ngược lại! Như trong kinh Người bắt rắn, Sư ông Nhất Hạnh dịch và giải: “Họ cũng giống như người đi bắt rắn mà biết sử dụng một khúc cây có nạng sắt: Khi đi đến vùng hoang dã, thấy rắn lớn, họ ấn nạng ngay xuống cổ rắn và lấy tay bắt ngay đầu rắn. Rắn kia tuy có thể quẫy đuôi, quấn tay, quấn chân hoặc một bộ phận khác của cơ thể người bắt rắn, nhưng không thể nào mổ người ấy được. Bắt rắn như vậy không cực khổ mà cũng không lao nhọc, chỉ vì người ấy biết rõ thủ thuật bắt rắn. Người con trai hoặc con gái nhà lành khi học hỏi kinh điển cũng phải khéo léo tiếp nhận văn và nghĩa kinh một cách không đảo lộn thì mới nắm được Chánh pháp. Họ không học hỏi với mục đích ba hoa tranh cãi mà chỉ học với mục đích tìm cầu giải thoát. Họ không cần trải qua những cực khổ và nhọc nhằn”.
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm! Nếu mình không biết bắt rắn bằng cách lấy nạng đè đầu của nó, mình sẽ bị nó cắn lại. Cho nên có thể nói rằng tu là sống theo lời Phật dạy: Biết sống hạnh phúc an lạc, xa lìa phiền não, khổ đau. Chính vì vậy mà khi Phật lần đầu chuyển pháp luân đã dạy Bốn sự thật vô thượng (Tứ Thánh đế) chỉ cho chúng ta con đường đưa đến chấm dứt khổ đau. Nếu chúng ta tự nhận mình đang tu mà không tìm thấy an lạc, như vậy là mình đang tu sai đường, không đúng như Chánh pháp Phật đã dạy. Đừng để những ngộ nhận giáo lý hay lời Phật dạy là quả vị chứng đắc, nên nhớ đó chỉ là “cái bè giáo lý” đưa mình sang bờ giác ngộ. Phật dạy “Nhất thiết tu-đa-la như tiêu chỉ nguyệt”, nghĩa là tất cả các lời Phật dạy, hay Kinh tạng chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng mới chính là mục tiêu để giác ngộ. Các pháp môn, kinh điển chỉ là ngón tay chỉ hướng cho chúng ta mà thôi! Nếu chúng ta ngộ nhận ngón tay là mặt trăng thì sẽ hối tiếc khôn nguôi!
Thế còn các pháp môn thì sao? Pháp môn là những phương pháp hành trì, nếu chúng ta chọn một pháp môn thích hợp với mình thì việc tu học sẽ có tiến bộ. Pháp môn là phương pháp, là chìa khóa để mở cánh cửa tâm linh của mình. Để tìm ra đúng chìa khóa mở cửa, chúng ta phải thử nghiệm hành trì. Dùng trí tuệ để quán chiếu, soi sáng những thành quả đạt được qua công phu tu tập. Nếu thấy có tiến bộ, như vậy là mình đã tìm ra đúng chiếc chìa khóa cho tâm linh mình; bằng không mình phải tiếp tục tìm kiếm và thử nghiệm.
Như pháp môn Tịnh độ hay còn gọi là pháp môn Niệm Phật, Tịnh độ không chỉ là một cảnh giới mà còn là một trạng thái của tâm. Cho nên xưa chư Tổ có dạy “Duy tâm Tịnh độ” hay “Cực lạc hiện tiền”, có nghĩa là Tịnh độ đến từ tâm và Cực lạc không phải đợi vãng sanh mới có, mà hiện diện ngay trong phút giây này! Nếu chúng ta thực tập pháp môn này mà tâm mình vẫn còn phiền não, sân hận thì rõ ràng chúng ta hoặc là đã thực tập sai, hay là đã chọn không đúng pháp môn, không đúng chìa khóa.
Trong giáo nghĩa Tứ tất đàn - Bốn tiêu chuẩn giáo hóa được thành tựu, Phật dạy các pháp môn tùy theo căn cơ của chúng sinh, như tùy bệnh mà cho thuốc. Do vậy, việc tu tập cần phải dụng tâm, quán xét mỗi khi hành trì để tìm đúng phương pháp chính đáng cho mình, không nên quá cố chấp vì chính sự hiểu biết của mình cũng phải trải qua những thay đổi tùy theo mức độ hành trì, thử nghiệm của mình. Do đó, chúng ta phải nắm cho được cái “tùy duyên bất biến và bất biến tùy duyên” ở trong đạo Phật.
Nói đến việc tùy bệnh cho thuốc, có nghĩa là Đức Phật muốn chúng ta sau khi thử qua phương thuốc chữa trị của Ngài, mình phải cảm thấy kết quả của việc “uống” thuốc đó. Cho nên Phật dạy: Tu tập đúng Chánh pháp sẽ thành tựu được “hiện pháp lạc trú”, nghĩa là mình sẽ tìm thấy an lạc, hạnh phúc ngay trong lúc hành trì, không phải chờ đợi về sau. Trong thời Phật còn tại thế, Ngài đã quở trách một số thầy có quan niệm là tu tập để có quả tốt về sau, cũng như một số giáo sĩ ngoại đạo đến hỏi Ngài về việc này. Phương pháp thực hành “hiện pháp lạc trú” mà các nhà Phật học trình bày trong nhiều sách báo, tạp chí Phật giáo là tinh thần Phật dạy trong kinh .
Không than việc đã qua,

Không mong việc sắp tới,

Sống ngay với hiện tại,

Do vậy, sắc thù diệu.

Do mong việc sắp tới,

Do than việc đã qua,

Nên kẻ ngu héo mòn,

Như lau xanh rời cành.
Cũng với nội dung này, kinh Trung bộ (kinh Nhứt dạ hiền giả) cũng có bài kệ:
Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng.

Quá khứ đã đoạn tận,

Tương lai lại chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây.

Không động, không rung chuyển

Biết vậy, nên tu tập.
“Chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính ở đây” cho chúng ta thấy hoa trái, kết quả của việc đi tu không phải là một sự mong chờ, hy vọng viển vông, mà là một sự gặt hái cụ thể, ngay trong hiện tại! Không những thế, quả hiện tại vui còn mang chúng ta đến một tương lai vui.
Hiện tại vui, sau vui

Là từ bỏ mười ác

Với tâm trạng hân hoan

Chết sinh vào cõi lành

Như thuốc ngon lại bổ.

Lại như mặt trời lên

Tan mây mù hắc ám

Pháp hành hiện tại lạc

Quả tương lai cũng vui

Do Như Lai giảng dạy

Phá tan mọi tà thuyết.
Tất nhiên, để thụ hưởng được sự an lạc này, chúng ta phải thay đổi cách sống và cư xử hàng ngày. Những thói quen, tập khí cũ đưa ta đến khổ đau phải được cắt đứt, đình chỉ. Mình giống như con kén đang từ từ lột xác để hóa thành con bướm đẹp đẽ rực rỡ! Chính trong quá trình chuyển hóa, lột xác này chúng ta mới cảm nghiệm sâu sắc được pháp môn an lạc ngay trong hiện tại.
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh không tâm, chớ hỏi thiền.

 
Vậy hành trình khám phá tâm linh là con đường đi tu để thoát khổ. Chúng ta có thể tìm thấy trong tất cả các Kinh tạng, Đức Phật luôn luôn nói về mục đích của đạo Phật là giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Mà hễ hết khổ là vui, là hạnh phúc!
Tóm lại, đi tu là nhìn lại những đầu mối gây đau khổ mà do chính mình đã tạo ra trong quá khứ, hay trong hiện tại. Và, lần lần tháo gỡ (chuyển hóa) những mối gút mắc, hay thay đổi cách sống, thái độ. Nếu mình chỉ chờ đợi một cơ may nào đó xảy đến để mình có hạnh phúc là một sự mơ tưởng viển vông, không đúng Chánh pháp như Phật đã dạy. Một người đi tu có chánh kiến là biết mình phải chọn một pháp môn thích hợp và ra công hành trì để chuyển hóa chính mình. Nếu chỉ “nằm chờ sung rụng” thì biết ngày nào có được an lạc thật sự?!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.10/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.