Giải thoát của Thanh
Văn: Những thứ bậc chứng quả: Đệ tử của
Đức Phật kẻ hiền người ngu muôn vàn sai khác, qua sự dạy dỗ của bậc Thiện Tri
Thức, sự đào luyện của Tăng Đoàn, nếu y theo lời dạy của Phật mà tu hành thì ai
cũng có thể giải thoát chứng được Chánh Giác.
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng
Giải Thoát là mục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn, nhưng chúng Thanh
Văn chú trọng ở Giải thoát còn Đức Phật chú trọng ở Chánh Giác mà thôi. Chúng
Thanh Văn tại gia, xuất gia vì bị khổ vô hạn sanh tử bức bách, hiểu rõ cội nguồn
của sinh tử là vô minh, tham ái. Nương nơi hạnh Trung Đạo mà tu hành liền có thể
hướng đến Chánh Giác, đạt đến Giải thoát sanh tử. Đây ắt cần phải kiên quyết đòi
hỏi tinh tấn, nổ lực phi thường mới có thể hoát nhiên đại ngộ, siêu phàm nhập
Thánh, chuyển đổi cuộc sống mê mờ trở thành cuộc sống Chánh Giác. Sự thật chứng
tiến tu của học giả có thể chia ra bốn bậc:
Tu Đà Hoàn: (Quả Dự Lưu) Đây là ở nội tâm mới được
thể nghiệm: "Biết Pháp, nhập Pháp". Từ trước đến nay chưa từng có. Dù chưa đạt
đến rốt ráo nhưng sanh tử đã có thể gọi là được Giải thoát. Bấy giờ dứt hết căn
bản sanh tử, thấy suốt được Pháp tánh tịch diệt, như nói: "Ở pháp diệt này, thấy
biết bằng Chánh Huệ như thật biết được Minh", đã dứt sạch "Ba kết" (Thân kiến,
giới thủ và nghi). Đó gọi là quả Tu Đà Hoàn. Không đọa vào ba ác đạo, nhất định
hướng đến Tam Bồ Đề (Chánh Giác). Bảy lần qua lại chốn Nhân Thiên rồi mới dứt
hết khổ biên. Ba kết là thứ trọng yếu nhất trói buộc trong phiền não sanh tử đó
là:
Thân kiến: (tức là ngã kiến) do chứng được trí
tuệ mà thấy được tính vô ngã, không còn có ý tưởng thần ngã trong tự thân. Như
Xiển Đà nói: Không còn thấy ngã, chỉ thấy Chánh pháp.
Giới thủ: Chấp các thứ tà giới (như khổ hạnh, tế
tự, chú thuật v.v…) cho là có thể giải thoát. Bậc Thánh giả không thể nào còn
sinh ra giới thủ mà chủ trương những Tôn giáo tà hành bất hợp
lý.
Nghi: Đối với Tam Bảo Phật Pháp Tăng còn do
dự. Bậc Thánh giả (mới được Pháp thân) thì cùng với Phật và Tăng trong tâm khế
hợp, đâu còn nghi hoặc nữa. Cứ thế mà tiến tu sẽ tiến lên bậc II, là quả Tư Đà
Hàm (Nhất Lai), Bậc thứ ba là A Na Hàm (Bất Hoàn) và tiến đến quả A La Hán, bậc
Giải thoát sau cùng.
A La Hán: Là bậc Giải thoát sanh tử (Vô sanh)
Dứt sạch các phiền não (Sát tặc), là bậc Thánh xứng đáng được mọi người cúng
dường (Ứng cúng). Như trong Kinh nói Tu Đà Hoàn dù phá trừ được phiền não nhưng
hãy còn "Mạn" thừa chưa hết (Kinh 105 Tạp A Hàm quyển 5) "Mạn" này hoặc gọi là
Mạn loại. Đây tuy nhận nơi xuất trí vô ngã không còn khởi kiến chấp phân biệt
"ngã" và "ngã sở" nhưng cái tập quán từ vô thỉ đến nay đã trở thành tánh "ngã tự
thị" trong tâm chưa có thể dứt sạch, cho nên nói rằng còn thừa lại một số để trở
thành sự sinh tử bảy đời và một đời. Vì vậy cần phải có sự nỗ lực liên tục mới
có thể hoàn toàn dứt hẳn cội nguồn sanh tử đạt đến địa vị cứu cánh giải thoát.
Sự chứng đắc của hàng Thanh Văn từ sơ quả đến tứ quả không phải tất cả đều giống
nhau.
Người có trí huệ lớn như Xá-lợi-phất,
người ngu si như Châu-lợi-bàn-đa-dà, người lớn tuổi nhất (120 tuổi) như Tu Bạt
Đà La, người nhỏ tuổi nhất như Sa Di Quân Đầu đều có thể chứng quả A La Hán. A
Nan theo Phật rất lâu nhưng vẫn chưa chứng quả A La Hán mà các ông Xá Lợi Phất,
Kiều Trần Như chẳng đầy một ngày đã chứng. Hơn nữa, có người sau khi chứng quả
Tu Đà Hoàn, ngay hiện đời tiến tu liền chửng quả A La Hán, cũng có người sau khi
chứng được sơ quả, hoặc nhị quả, tam quả rồi ngừng lại đó không tiến lên nữa,
nhưng sinh tử đã có hạn lượng, việc giải thoát rốt ráo không còn vấn đề nữa.
Tình hình chứng quả cũng không giống nhau, đại khải là căn cứ vào căn tính lợi
độn và đức tin về Đạo (Tin sâu ở nơi Tam Bảo) và mong muốn thực hiện giải thoát
mà xác định sự nhanh chậm. Đó là ai ai cũng có thể đạt đến, nhưng nếu đem tâm có
chấp trước có thiên lệch thì không thể khế hợp với việc thực hành trong đạo, đặc
biệt nếu loạn tâm, vọng chấp thì rất khó đạt đến được.
Giải thoát sanh tử: Giải thoát
sanh tử là sự tự giác chứng quả của bậc Thánh giả: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lui lại đời này nữa." Trí tự
chứng Niết Bàn hiện đời. Đứng về mặt "Kiến pháp" thì từ nơi "Vô thường vô ngã"
mà ngộ nhập mọi pháp, đều trở về với Tịch diệt, "Hiện giác", tức là hiện tiền
thể nhận được "không có một mảy mai nào có thể dính mắc". Đó là sự giác chứng
"Vô trước, vô lụy" (không dính mắc, không ràng buộc). Tức là Niết Bàn vô sanh
(Xác chứng sanh tử bất khả đắc). Đứng về mặt "Ly dục" thì: "Chẳng phải chỉ ở
trong hiện giác tính không như mặt trời sáng rỡ trên hư không, không có một chút
bóng râm nào".
Giả sử từ nơi đó mà quán sát trở lại tâm
cảnh bình thường (ý thế tục), cũng tự giác (Cảm thấy) phiền não không khởi, điều
này có thể thử nghiệm được, như Xá-lợi-phất nói: "Tôi tự nghĩ trong tâm tôi có
ly dục không, vị Tỳ kheo ấy phải ở nơi cảnh giới hoặc là lấy tướng tịnh, tức là
cố ý tưởng về sự thân ái của nam nữ, tâm vui thích về thanh sắc, nếu biết được
tâm mình ở nơi kia xa lìa được, cứ thế xoáy sâu vào thì có thể tự ghi nhớ đợc rõ
ràng: "Đối với ngũ dục, có công đức ly dục giải thoát".
Điều này chứng tỏ rằng phiền não của
chính mình sạch hết, không thể nào còn có tư dục, tư kiến mà hành động nữa, tức
là không thể nào còn có chiêu cảm nghiệp đời sau của sanh tử nữa. Như đèn sáng
không còn chế thêm dầu thì không bao lâu sẽ tắc mất. Niết Bàn chứng đắc hiện
tiền chẳng những là có thể xác chứng được giải thoát sanh tử vị lai mà đối với
hiện tại lại có thể thực hiện được sự tự do của giải thoát.
Đây là do thông đạt chân lý cứu cánh của
nhân sinh: "Vô thường, vô ngã, vô sinh". Vị ấy biết rõ rằng tất cả vốn là rỗng
lặng, tất cả xưa nay như thế mà tất nhiên là như thế. Như sự già, chết (tính vô
thường). Tất nhiên phải đến, Phật cũng không có ngoài lệ, có gì phải buồn
thương? Nghĩ tâm ấy đối với mọi pháp thì có thể giải thoát tất cả mọi khổ bức,
bất cứ điều gì cũng không thể làm nhiễu loạn tâm tình của bậc Thánh giả được.
Tất cả sự khổ não vô hạn của nhân loại nếu quy nạp ra thì không ngoài hai
thứ
1. Thân khổ: từ thân mà có, tức là những gì liên hệ
đến sinh lý như đói, lạnh v.v…
2. Tâm khổ: từ tâm mà có, như những lo buồn từ
những được mất đối với sự vật bên ngoài, những cảm thương về sanh ly tử biệt,
nhất là khi già chết đến rồi cảm thấy sự ảo diệt của chính mình, ăn năn về những
tội ác đã làm, thống khổ về sự luyến tiếc gia đình, tài sản. Hai thứ này tuy có
ảnh hưởng lẫn nhau nhưng một bên nặng về sinh lý, một bên nặng về tâm lý. Thân
khổ thì ai ai cũng cùng cảm thấy, còn tâm khổ thì chẳng ai giống
ai.
Xá-lợi-phất nói với trưởng giả
Na-câu-la: Thân bị khổ nhưng tâm không có bị khổ. Điều này nói lên được yếu
nghĩa tu theo pháp Phật mà được giải thoát. Sự huân tu Định Huệ của đệ tử Phật
chỉ là đạt đến chỗ sáng sạch của tâm địa, rỗng suốt được chân Huệ. Giả sử khi
già chết đến, thân thống khổ đến bậc nào cũng vẫn sinh ra được tâm khổ ái luyến.
Người được Huệ giải thoát thì sự đau khổ thân thể cũng giống như người thường
nhưng nhờ sức định sâu mà thân khổ được giảm nhẹ hoặc không mảy may thấy khổ
nữa. Tâm khổ là từ nơi trong sự chấp ngã và ngã sở mà khởi ra sự ưa thích bản
thân dẫn đến các thứ tình cảm, bậc Thánh chứng được Vô ngã, liền có thể lìa ái
dục mà tâm được tự tại giải thoát.
Sự giải thoát từ sự tâm tịnh hóa là pháp
môn căn bản nhất của pháp xuất thế gian, là vấn đề trọng yếu nhất của pháp xuất
thế gian. Vì thế trong kinh thường nói khi tham dục hết gọi là tâm giải thoát.
Ngài Xá-lợi-phất nói: "Bậc Đại sư chỉ nói pháp điều phục dục tham". Dục tham tức
là chiêu cảm thân tâm làm gốc của Tập Đế, đó là cội nguồn của sự khổ bức ở hiện
tại, tham ái lại là cội nguồn lưu chuyển ở vị lai. Giải thoát tức là tự thân
mình chứng đắc mà được giải thoát rốt ráo, đời sau không còn thọ sanh tử nữa.
Hiện tại có thể lìa bỏ chấp tự ngã, giải thoát tự tại, từ trong hành vi tự tha
và vui tạo thành sinh hoạt hợp lý vủa bậc Chánh Giác.
Niết Bàn: Giải thoát sanh tử
không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những
khổ sanh tử ở vị lai không còn sanh khởi nữa, được tự tại trong những khổ bức
của hiện đời. Đương thể giải thoát như thế tức là Niết Bàn.
Niết Bàn có 2 thứ: Hữu dư và Vô dư khác
nhau. Ý nghĩa của Niết Bàn là không còn trở lại nhân gian này
nữa.
- Nhưng trong Kinh 957 (A Hàm _Q34) nói:
"Chúng sanh ở chỗ này mạng chung nương theo ý sanh thân mà sanh ở chỗ khác.
Đương khi ấy do nhơn nơi ái mà níu lấy , nhơn nơi ái mà trụ lại, cho nên nói hữu
dư… Đức Thế Tôn được chứng Vô dư kia mà thành bậc Chánh Đẳng Chánh
Giác.
- Phẩm Quả Diệt trong Tăng Nhất A Hàm
cũng nói như thế này: Tỳ Kheo diệt hạ phần kiết sử tức là được Niết Bàn kia,
không còn trở lại đời này nữa. Đó gọi là cõi Hữu Dư Niết Bàn… Tỳ Kheo diệt hết
hữu lậu thành vô lậu được ý giải thoát, trí chứng Huệ Giải Thoát mà tự vui lấy…
Đó gọi là cõi Vô Dư Niết Bàn.
- Kinh Thiện Nhơn Trụ trong A Hàm nói:
"Đối với người ít MẠN_ mạn chưa hết_ năm phần kiết sử dưới đã dứt, lại chia làm
7 bậc Thiện Nhơn mà hiện đời rốt ráo không còn bị sanh tử nữa, gọi là Vô Dư Niết
Bàn… Điều này có thể thấy Niết Bàn là không còn thọ sanh trở lại trong nhơn gian
nữa. Bậc A Na Hàm, A-la-hán hay Phật _Phật cũng là A-la-hán_ đều không trở lại
nhân gian cho nên đều gọi họ được Niết Bàn. Nhưng A Na Hàm còn có phiền não và
sắc thân thừa dư, còn A La Hán mới là không còn dư.
Niết Bàn là sự tự chứng hiện đời, là sự
giải thoát sanh tử ở thế gian của người tự giác, không luận là rốt ráo ở nhân
gian hoặc rốt ráo ở chỗ khác, hễ giải thoát rốt ráo sanh tử thì gọi là "Bát Niết
Bàn". Khi được Niết Bàn trừ ngoài "diệt hết các khổ" thì còn gì nữa? Cổ Đức có
người nói rằng: "Còn có thân tâm"; có người nói có tâm mà không có thân. Nương
theo Khế Kinh thì những lời đó chỉ là những hý luận của vọng tình mà
thôi!
- Kinh 905_ Tạp A Hàm Q32 nói: Đức Như
Lai từ sắc (thọ, tưởng, hành, thức, động, lự, hư cuống, hữu vi, ái…) đã hết, tâm
Thiện, Giải thoát sâu v.v… rộng lớn vô lượng, vô số, tịch diệt, Niết Bàn… Như
Lai hoặc có, hoặc không; hoặc chẳng có chẳng không; hoặc chẳng phải có chẳng
phải không. Sanh tử đời sau không thể ghi nhận được.
- Lại Kinh 962_Tạp A Hàm Q34 nói: "Đã
biết sắc đã dứt trừ; đã biết thọ, tưởng, hành, thức đã dứt trừ tận cội gốc như
cây Ta-la bị đứt đầu không còn sống được, mãi đến đời vị lai không còn sinh
khởi… Rất sâu, rất rộng, vô lượng vô số, dứt hẳn không còn: "Đoạn dứt hẳn tất cả
kiến chấp, tấùt cả thọ, tất cả sanh, tất cả ngã, ngã sở, ngã mạn, kiết sử ràng
buộc; vắng lặng, mát mẽ, chân thật. Giải thoát như thế ấy, sanh ra chẳng như
thế, không sanh ra cũng chẳng như thế".
Đức Thế Tôn chỉ nói rõ "Niết Bàn
là:những phiền não, nghiệp báo không sanh khởi" để người ta hình dung trạng thái
"Sâu xa rộng lớn, vô lượng, vô số". Mà trạng thái sâu xa, rộng lớn, vô lượng, vô
số tức là "Pháp tánh không tịch" , vượt ra ngoài danh tướng, số
lượng.
- Như Kinh 962_Tạp A Hàm Q34 nói: "Như
Pháp luật của Như Lai thì không nhánh, không cành lá, chỉ còn lại thân gỗ chắc
chắn".
- Trong phần biệt dịch nói: "Cù Đàm cũng
như thế, đã dứt trừ tất cả phiền não trói buộc, bốn đảo tà hoặc đều dứt hết, chỉ
còn lại Chân Pháp Thân bền chắc. Thân tâm ảo hóa dứt hẳn rồi, chỉ là Tánh không,
chỉ là Pháp thân, đó tức là Niết Bàn. Loài Hữu tình sở dĩ cá thể nối tiếp nhau
mãi cho nên khổ sở vô hạn, đó chỉ là các hành mê tình làm gốc, mắc kẹt trong ngã
chấp, trong trụ trước mà hình thành sinh mạng cá thể hòa hợp tiếp
nối.
Vì thế mà năm uẩn bừng dậy, chết sống
mãi không thôi. Nếu như phá được ngã, trừ bỏ ái tức là cắt đứt được sợi dây trói
buộc, ngũ uẩn trước diệt, mà ngũ uẩn sau không sanh khởi. Tức chỉ là một Pháp
tánh mà không thể gọi là cái gì cả. Như nước trong biển lớn do lạnh quá mức mà
đóng thành băng. Cá thể của khối băng trở ngại với nước biển, nếu như trời nóng
băng tan thì đó chỉ là nước biển hoàn toàn, lại không có thể hình dung ra được
cá tánh của khối băng là thế nào, ở đâu. Cũng như thế, như tưởng tượng thân tâm
trong Niết Bàn là như thế nào.
Có người cho là đem tiểu ngã hòa tan
trong đại ngã, mong muốn siêu việt cá thể không thể nghĩ bàn. Thực tại chỉ là
suy xét theo vọng tình mà thôi. Cho nên từ hữu tình hướng đến Niết Bàn có thể
nói là "đây diệt nên kia diệt" hoặc là như chặt đứt đầu cây Ta la, không còn
sống lại được. Như bàn thẳng về Niết Bàn thì không thể nói là có thể tưởng tượng
là sanh, vì nó vượt ngoài danh tướng số lượng, không thể biểu thị
được.
Cho nên Diêm Ma Ca cho là Đức Thế Tôn
nói: "Vị A La Hán lậu tận khi thân hoại mạng chung không có gì cả". Bị bài xích
cho là tà kiến. Thử hỏi: "Đức Như Lai thấy pháp: "chơn thật như", trụ nơi vô sở
đắc làm sao có thể chỉ bày được" (Kinh 104 Tạp A Hàm Q5). Như thế làm sao có thể
tưởng tượng được là không có gì ư?
- Kinh Quản Sự_Q3 cũng nói rất rõ ràng:
"Hoàn toàn vắng lặng, rốt ráo mát mẽ, ẩn mất không hiện, chỉ vì thanh tịnh,
không có thể hý luận?" Thực thể thanh tịnh không lý luận đó chẳng phải không,
chẳng phải có mà chỉ có thể nói là chẳng thể chỉ bày trọn vẹn Niết Bàn là như
thế nào.
Chánh Giác của Phật: Sự đặc
thù của Chánh Giác và Giải Thoát: Phật là người chứng được quả vị A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề tức Vô Thượng Chánh Giác. Tính phổ biến tính cứu cánh của
Chánh Giác siêu việt hơn các hàng Thanh Văn đệ tử, cho nên từ Phật Đà là sự
Chánh Đẳng Giác được lập lại một lần nữa. Người học Phật cũng không nói là phát
tâm xuất ly mà nói là Phát tâm Bồ Đề. Từ Thanh Văn là chỉ người nghe tiếng
(thanh) mà được giải thoát. Còn Phật thì "trước đó chưa nghe Pháp, nhưng có thể
tự giác, tự tri, hiện Pháp Thân Trí, biết Pháp Thân hiện tại được Tam Bồ Đề
(Chánh Giác)".
Chánh Giác của Phật là triển khai hoàn
toàn rốt ráo trọn vẹn, vô tham, vô sân, vô si. Còn Chánh Giác của hàng Thanh Văn
đệ tử thì chỉ ở một phần nào đó của vô tham, vô sân, vô si mà thôi. Chánh Giác
của Phật và Thanh Văn có thể nói là có trình độ khác nhau. Chánh Giác của Phật
là tâm ở trong trí tuệ hàm chứa cả vô tham, vô sân, vô si. Từ trong sinh hoạt,
thân tâm tịnh hóa, mình người hòa vui mà đưộc rốt ráo tự tại. Như từ trong vô
ngại của trí tuệ mà nói thì việc chứng Pháp tánh không của Vô lậu huệ cùng với
Thanh Văn không có khác, đến rốt ráo không thì không có điều gì khác nhau cả.
Nếu có thể thực hiện "Trí Chứng Không Như" tức chuyển phàm thành Thánh, chuyển
mê thành ngộ.
Tam thừa Thánh nhân đồng tánh, không
phải là thần, chỉ là người tự do dùng "Trí Chứng Không Tịch" mà ly dục giải
thoát. Chẳng qua là từ bi không hại người mà thiên về mặt tiêu cực đó là Thanh
Văn; còn trọng về mặt tích cực cứu hộ ngừơi khác tức là tu theo hạnh Bồ Tát mà
thành Phật. Trong Tam Thừa, Phật là một Bậc Thánh Nhân, giải thoát giống như các
vị khác nhưng lại biểu lộ sự vĩ đại. Ở loài hữu tình thì thân tâm nương nhau,
cũng là tự tha thành tựu lẫn nhau. Cho nên Chánh giác của Phật chẳng phải chỉ
khế hợp với tánh không của duyên khởi mà còn thấu đạt được sự huyễn hữu của
duyên khởi nữa. Ngài còn phát huy đức hạnh Từ Bi lợi tha, không giống như là
hạnh Vô tránh tiêu cực của hàng Thanh Văn. Vô thượng Chánh kiến giác của Phật ở
nhân gian từ trong Chân tục vô ngại, Bi_Trí tương ưng mà phân biệt khác với hàng
Thanh Văn.
Luận về giải thoát thì Phật và đệ tử
Thanh Văn bình đẳng như nhau: Như trong Kinh Cù Mặc Mục-Kiền-Liên ở
Trung A Hàm nói: "Như Vô sở trước Đẳng chánh giác giải thoát của Như Lai cùng
với Huệ giải thoát của A-la-hán , hai thứ giải thoát này không có khác nhau,
cũng không có hơn kém. Bình đẳng của Giải thoát là sự Giải thoát căn cứ nơi sự
chiêu cảm phiền não sanh tử và sanh tử mà nói. Như luận về tập khí của phiền não
thì hai bên không giống nhau. Như ngài Xá-lợi-phất có thói quen hay giận,
Tất-lăng-già-bà-ta có thói quen kêu mạn; đó là những cái thói quen của phiền não
chất chứa lâu ngày mà thành.
Tuy nhiên, tâm địa thanh tịnh không có
phiền não nữa, lại còn trong vô ý biểu lộ ra ở thân, khẩu, ý. Sự thanh tịnh giải
thoát của Thanh Văn lại không thể sửa đổi những thói quen tốt để những dư tập
trở thàh tánh quen (tập quán). Thói quen này tuy không có quan hệ với sanh tử
nhưng nó hoàn toàn là dư tập của phiền não, có sự trở ngại đến thanh tịnh rốt
ráo. Người xưa có một ví dụ: Hàng Thanh Văn gấp lo cho chính mình dứt trừ phiền
não mà không dứt trừ tập khí. Cũng giống như khi cùm chân phạm nhân tự nhiên
được mở ra, hai chân dù được tự do mà chưa đứng, hãy còn lóng cóng (không thoải
mái).
Bồ Tát tu hành trong 3 đại A-tăng-kỳ
kiếp, trong thời gian đó tập khí được tiêu trừ dần, đến khi thành Phật thì phiền
não và tập khí hoàn toàn dứt hẳn. Cũng như phạm nhân bị cùm chân, trước đã có
cách khiến cho họ đã cất bước đi được, tới chừng mở cùm ra, được tự do, hai chân
không có chút cảm giác lóng cóng nào. Sự giải thoát này tuy đồng mà chẳng đồng.
Đó là do hàng Thanh Văn gấp lo cho mình, còn Bồ Tát chú trọng lo cho
người.
Tính tương đối và tuyệt
đối: Đức Phật hiện
thực ở nhân gian_như Phật Thích Ca Mâu Ni_ khuyếch trương, quảng bá vô tham, vô
sân, vô si. Đề cao sự tôn trọng chân lý, tôn trọng chính mình, tôn trọng thế
gian mà hoàn thành đức hạnh ở mỗi thời đại. Nói như thế có nghĩa là trên tính
đồng nhất của Bậc Thánh giả Chánh giác còn có tính chân tục vô ngại, tính Bi_Trí
tương ưng. Đạt đến địa vị ấy tức là Phật. Ở trong "Chánh giác Trí chứng Không
tịch" không có kia đây sai khác, hoàn toàn triệt để, phát triển ba đức bình
đẳng, hoàn toàn thánh thiện. Quả vị Chánh giác căn cứ hoàn toàn triệt để nơi
Thánh thiện ấy, thích hợp với đương thời, đương địa, đương cơ. Bất cứ nơi đâu sự
tốt đẹp cũng đều viên mãn.
Đại thừa Phật Giáo nói: "Bồ Tát khi mới
chứng được vô sanh pháp nhẫn, dù tương ưng với Từ_Bi , nhưng nói theo "Trí chứng
tánh không" thì bình đẳng với Thanh Văn, tức có thể gọi là thành bậc Vô thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, tức có thể thành Phật. Quả vị Phật rốt ráo viên mãn không
ngoài việc tịnh hóa nhân tính, phát triển đức năng con người mà đạt đến chỗ hoàn
thiện nhất. Đó mới chính là quả Phật do cá nhân thành tựu. Phật thực hiện quả
Phật ngay nơi nhân gian. Theo quan niệm của Đại thừa thì ngời đạt đến quả vị
Phật không có điều nào chẳng biết, không việc nào chẳng làm được, ở cùng khắp
tất cả, tuyệt đối không hạn lượng. Đức Phật hiện thực ở nhân gian, ít nhiều có
thể khảo chứng điều đó.
Đức Phật do nhiều kiếp tu hành có trí
tuệ thế tục rộng lớn, có trí thắng nghĩa tự phát, nhưng những việc không chỗ nào
chẳng biết, không việc nào không làm được, ở cùng khắp tất cả, thật khó mà chứng
minh được ở Đức Phật hiện thực. Trái lại, nếu được "không có điều gì chẳng
biết", "không có việc nào chẳng làm được", ở cùng khắp tất cả, Phật cũng quyết
không vì thế mà tự xưng là Phật Đà. Người trong thế gian, chỉ cần hiện thực tồn
tại tức duyên khởi tồn tại. Duyên khởi có đặc tính tương đối không thể nào ở
khắp tất cả, việc nào cũng làm được, điều nào cũng biết. Quan niệm về Đức Phật
phát triển như thế, là vì Phật pháp phổ cập đến nhân gian, quan niệm đó bắt
nguồn từ nơi tình cảm sùng kính của Tín đồ quy y theo Phật mà phát triển
ra.
Từ khi Đức Thế Tôn nhập diệt, do sự diễn
biến của không gian và thời gian, ý muốn của Tín chúng về tri thức, năng lực tồn
tại phải vô hạn lượng. Đức Phật hiện thực không thể thích hợp với người nhân
gian đương thời, vì thế, người ta mới tưởng tượng ra Đức Phật là không điều gì
chẳng biết, không việc nào chẳng làm được, ở khắp mọi nơi và ở bất cứ thời đại
hoàn cảnh nào, Tín chúng nào cũng không thể vượt qua Ngài được. Họ suy tôn Ngài
là bậc viên mãn nhất, tuyệt đối nhất. Đó là Đức Phật lý tưởng, là khách quan hóa
bản chất tự ngã.
Các Tôn Giáo ảo tưởng cho đây là vị thần
ngoại tại, còn Phật tử có cái nhìn đúng đắn thì biết đó là Đức Phật tự tâm, đó
là khách quan hóa về ý muốn bản chất của tự ngã. Chúng ta biết rằng thành Phật
là Trí chứng _tức là tánh không tịch của Tam pháp ấn. Nó không có tính kia đây
(đối đãi) mà có thể nói là tuyệt đối, triệt để, chơn tục không ngăn ngại, Bi
_Trí tương ưng. Đạt đến mức đó tức là Phật Đà. Tri thức, năng lực, tồn tại, tất
cả duyên khởi vĩnh viễn là tương đối. Đó chẳng phải là sự thiếu sót của Đức Phật
nhân gian mà đó mới là khế hợp với chân lý. Tuy nói là tương đối, nhưng không
luận là Đức Phật xuất hiện ở thời đại nào, địa phương nào thì tri thức năng lực
tồn tại của Ngài chắc chắn là thích ứng mọi trường hợp và đạt đến chỗ trọn vẹn
nhất. Tính tuyệt đối của Đức Phật chính là hoàn thành ở trong tính tương
đối.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.23/7/2014.
|
No comments:
Post a Comment